|
Với tâm thế sẵn sàng bước vào kỷ nguyên mới, để viết tiếp câu chuyện thành công của một Việt Nam hùng cường và thịnh vượng, lần đột phá này, Đảng ta định vị khu vực kinh tế tư nhân với vai trò là động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia. Trên quan điểm đổi mới về tư duy, Nghị quyết số 68-NQ/TW đang được thiết kế với hàng loạt cải cách đột phá về thể chế, chính sách và môi trường kinh doanh để kinh tế tư nhân trở nên vững mạnh, góp phần quan trọng định hình tương lai của kinh tế quốc gia.
![]() |
Sau gần 40 năm Đổi mới, kinh tế tư nhân nước ta đã không ngừng phát triển cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Với gần 1 triệu doanh nghiệp và hơn 5 triệu hộ kinh doanh hoạt động trong nền kinh tế, kinh tế tư nhân đóng góp khoảng 50% GDP, hơn 30% tổng thu ngân sách Nhà nước và sử dụng khoảng 82% tổng số lao động, là lực lượng quan trọng thúc đẩy đổi mới sáng tạo, nâng cao năng suất lao động, gia tăng năng lực cạnh tranh quốc gia, góp phần xoá đói, giảm nghèo, ổn định đời sống xã hội.
Nhiều doanh nghiệp tư nhân đã phát triển lớn mạnh, khẳng định thương hiệu và vươn ra thị trường khu vực, thế giới; đội ngũ doanh nhân ngày càng lớn mạnh, tinh thần kinh doanh, tinh thần đổi mới và khát vọng vươn lên của kinh tế tư nhân ngày càng mạnh mẽ, trách nhiệm xã hội, đạo đức, văn hóa ngày càng lan tỏa sâu rộng...
Tuy nhiên, kinh tế tư nhân đông nhưng chưa mạnh; gần 98% doanh nghiệp có quy mô siêu nhỏ, nhỏ và vừa, sức cạnh tranh, hiệu quả hoạt động, kỹ năng quản trị còn hạn chế. Năng suất lao động của khu vực kinh tế tư nhân mặc dù được cải thiện nhưng vẫn thấp hơn so với doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp Nhà nước.
![]() |
Thủ tướng Phạm Minh Chính thăm, làm việc với Công ty Cổ phần Tập đoàn Trường Hải (THACO) tại Khu kinh tế mở Chu Lai, tỉnh Quảng Nam. |
Tỷ lệ doanh nghiệp đang hoạt động bình quân đạt khoảng 10 doanh nghiệp/1.000 dân vào năm 2024, thấp hơn nhiều so với các nước trong khu vực. Quá trình chuyển đổi số trong kinh tế tư nhân diễn ra chậm, 65% doanh nghiệp nhỏ và vừa chưa có chiến lược ứng dụng công nghệ số; tỷ lệ doanh nghiệp tư nhân tham gia chuỗi cung ứng của doanh nghiệp FDI thấp, chỉ ở mức trên 20%.
Khu vực kinh tế tư nhân chưa thực sự trở thành lực lượng dẫn dắt nền kinh tế như kỳ vọng. Một bộ phận doanh nghiệp tư nhân chưa nghiêm túc tuân thủ pháp luật, thông tin chưa minh bạch; tư duy kinh doanh ngắn hạn, thiếu tầm nhìn chiến lược; đạo đức, văn hóa kinh doanh của một bộ phận doanh nhân còn hạn chế.
Có rất nhiều lý do khiến kinh tế tư nhân chưa thể khẳng định được mình. Trong số đó có thể kể đến môi trường kinh doanh, phát triển tại Việt Nam. Không phải là do Đảng, Nhà nước kìm hãm kinh tế tư nhân, mà ngược lại, lãnh đạo Đảng, Nhà nước quan tâm rất sâu sát đến việc phát triển khu vực này, song có những vấn đề cố hữu, điểm nghẽn về thể chế không thể giải quyết được ngày một ngày hai, mà cần phải có lộ trình.
Câu chuyện dưới đây là một ví dụ. Trong một bữa ăn cách đây hơn 2 thập kỷ, một doanh nhân người Việt từng ngồi với Jack Ma (ông chủ Tập đoàn Alibaba, một trong những vị tỷ phú giàu nhất Trung Quốc) thời điểm đó chỉ mới có khối tài sản 8 triệu USD, kể rằng mình đã sở hữu 12 triệu USD. Hai mươi năm sau, khi gặp lại, doanh nhân Việt hào hứng chia sẻ rằng mình đã có khối tài sản 3 tỷ USD. Nhưng Jack Ma khi ấy đã ở mốc hơn 27 tỷ USD và hỏi lại rằng “ông đã ngủ quên à?”. Câu hỏi không đơn thuần chỉ là so sánh tài sản, mà là một tấm gương phản chiếu về hai môi trường phát triển dù là hai nước là đối tác, láng giềng sát vách nhau và có nhiều nét tương đồng nhau.
Câu chuyện ấy không lạc lõng nếu đặt trong bối cảnh Việt Nam hiện nay, khu vực kinh tế tư nhân hiện có hơn 940.000 doanh nghiệp và hơn 5 triệu hộ kinh doanh đang hoạt động, là lực lượng nòng cốt tạo ra của cải, vật chất, đóng góp tới một nửa GDP, song vẫn chỉ là lực lượng "gánh nặng chứ chưa được giải phóng".
Vì sao lại như vậy, bởi từ trước đến nay, kinh tế tư nhân còn chịu thiệt thòi trong tiếp cận đất đai, tín dụng, chính sách thuế, cơ hội đấu thầu, và thường xuyên chìm trong một "mê cung thủ tục" và quy định chồng chéo. Trong khi doanh nghiệp Nhà nước được ưu ái về nguồn lực, doanh nghiệp FDI được ưu đãi về chính sách, thì khu vực tư nhân trong nước, nơi tạo ra phần lớn việc làm và giá trị gia tăng lại phải vật lộn trong bất công thể chế suốt nhiều năm.
Thực tế, có không ít doanh nhân Việt khởi nghiệp cùng thời với Huawei, Alibaba, Samsung, nhưng thay vì vươn lên từ đổi mới công nghệ hay sản phẩm, họ lại bị cuốn vào vòng xoáy địa tô, tài chính ngắn hạn, thậm chí bị loại khỏi sân chơi bởi chính những rào cản do Nhà nước tạo ra.
Câu hỏi “ông đã ngủ quên à?” không chỉ dành cho doanh nhân mà còn là câu hỏi dành cho các nhà làm chính sách. Do đó, giờ là lúc phải tỉnh dậy, không phải chỉ để bắt kịp thời thế mà để kịp trao cơ hội cho những người đáng lẽ ra họ đã có thể vươn mình từ rất lâu rồi.
![]() |
Năng suất lao động của khu vực kinh tế tư nhân mặc dù được cải thiện nhưng vẫn thấp hơn so với doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp Nhà nước. |
Chính vì vậy, việc Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 68-NQ/TW lúc này là rất cần thiết, để tháo nghẽn thể chế, định vị lại vai trò của kinh tế tư nhân. Cùng với Nghị quyết số 68-NQ/TW thì Nghị quyết số 57-NQ/TW, Nghị quyết số 59-NQ/TW và Nghị quyết số 66-NQ/TW được xem là “Bộ tứ trụ cột” để giúp đất nước Việt Nam cất cánh.
Sự ra đời của “Bộ tứ trụ cột” không chỉ là hành động chính sách, mà là tín hiệu rõ ràng về một chuyển hướng tư duy: Chấp nhận mạo hiểm, thúc đẩy sáng tạo, vươn mình hội nhập, trao lại quyền mơ lớn cho cộng đồng doanh nhân trong một tâm thế mới chủ động, dấn thân và dẫn dắt. Các nghị quyết này không phải để “cứu” doanh nghiệp mà để đặt lại quan hệ giữa Nhà nước và thị trường, đặc biệt là với khu vực tư nhân trong nước như một quan hệ hợp tác chiến lược thay vì chỉ quản lý hành chính.
Trong đó, với Nghị quyết số 68-NQ/TW, lần đầu tiên trong một văn bản cấp cao của Đảng, khu vực kinh tế tư nhân được xác lập là “lực lượng nòng cốt để phát triển kinh tế”, điều mà suốt nhiều năm vốn chỉ được thừa nhận một cách dè dặt, gián tiếp, nếu không muốn nói là bị lẩn khuất sau vai trò của doanh nghiệp Nhà nước và FDI. Có thể thấy, việc thẳng thắn khẳng định vai trò nòng cốt này không chỉ mang tính chính sách, mà là một bước chuyển lớn trong tư duy quản trị quốc gia, từ chỗ “quản cho chặt” sang “trao quyền để lớn”.
Khác với những định hướng trước đây vốn thiên về “cải thiện môi trường kinh doanh”, lần này các nghị quyết cho thấy một tâm thế mới, tạo ra hệ sinh thái để doanh nghiệp Việt có thể lớn, có thể mạo hiểm, có thể thua lỗ mà không bị trừng phạt và có thể quay lại đường đua mà không bị loại khỏi cuộc chơi.
![]() |
Nghị quyết số 68-NQ/TW mang tư duy pháp lý mới, khuyến khích doanh nhân khắc phục sai lầm, tái hòa nhập và đóng góp cho xã hội. Câu chuyện của ông Đỗ Anh Dũng, Chủ tịch Tập đoàn Tân Hoàng Minh sau khi được đặc xá đã bắt ngay lại công việc là minh chứng cho tinh thần nhân văn, thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển bền vững.
Những ngày đầu tháng 6, hình ảnh ông Đỗ Anh Dũng xuất hiện cùng lãnh đạo tỉnh Lâm Đồng bàn việc triển khai một dự án tại Đà Lạt, chỉ một thời gian không lâu sau ngày ông được đặc xá, đã trở thành một trong những bức ảnh truyền đi nhiều cảm hứng mạnh mẽ trong cộng đồng doanh nghiệp tại Việt Nam.
Ông Đỗ Anh Dũng mắc sai lầm và đã phải trả giá cho sai lầm của mình bằng những tháng tù giam cùng hàng nghìn tỷ đồng khắc phục hậu quả. Giờ đây, khi tái hòa nhập cộng đồng, thay vì bị làm khó do "có vết" thì hình ảnh ông Dũng ngồi cùng với lãnh đạo tỉnh Lâm Đồng đã cho thấy tư duy mới phù hợp với thời cuộc của lãnh đạo cơ quan Nhà nước.
![]() |
Ông Đỗ Anh Dũng, Chủ tịch Tập đoàn Tân Hoàng Minh. |
Đặc biệt, điều đó đã thể hiện rõ tinh thần của Nghị quyết số 68-NQ/TW là xử lý nghiêm minh những sai phạm nhưng không triệt tiêu cơ hội làm lại của doanh nhân, giải quyết vi phạm kinh tế phải ưu tiên áp dụng các biện pháp về dân sự, kinh tế, hành chính trước, cho phép các doanh nhân được chủ động khắc phục sai phạm, thiệt hại.
Có thể thấy, Nghị quyết số 68-NQ/TW đã tạo nên một khung tư duy rất khác biệt. Nếu như trước đây, nhiều vụ án kinh tế gần như “khép chặt cửa” cho khả năng tái hòa nhập của doanh nhân, thì nay, cơ chế xử lý mới khuyến khích việc đặt trọng tâm vào khắc phục hậu quả, không hình sự hóa quan hệ kinh tế khi có thể xử lý bằng biện pháp dân sự, hành chính.
Với tư duy cởi mở như vậy cũng sẽ giúp giảm tâm lý sợ rủi ro pháp lý tiêu cực, khuyến khích các doanh nhân khơi dậy động lực tái tạo giá trị, để các tài sản, nguồn lực xã hội không bị triệt tiêu một cách lãng phí sau các vụ án kinh tế. Và điều quan trọng nhất là giúp họ vẫn giữ được tinh thần doanh nhân, khuyến khích sửa sai có trách nhiệm thay vì chấp nhận “bỏ cuộc chơi”. Như vậy thì chính sách mới thực sự đi vào cuộc sống.
Theo ông Hoàng Văn Cường, Ủy viên Ủy ban Kinh tế và Tài chính của Quốc hội, đại biểu Quốc hội đoàn Hà Nội, nếu xử lý hình sự hóa mọi sai phạm kinh tế, doanh nhân sẽ không còn cơ hội làm lại, cũng đồng nghĩa nền kinh tế sẽ đánh mất lực kéo từ khu vực tư nhân.
Ông Cường cho rằng, hoạt động kinh doanh luôn đi kèm rủi ro. Khi pháp luật vẫn còn những điểm mù, chồng chéo, không ít doanh nghiệp buộc phải “lách luật” để đảm bảo tiến độ dự án, duy trì chuỗi cung ứng hoặc dòng vốn lưu chuyển. Trong nhiều trường hợp, việc vi phạm không bắt nguồn từ ý đồ trục lợi, mà đến từ hoàn cảnh vận hành.
“Không thể vì một vi phạm kinh tế mà triệt tiêu luôn cả một hành trình doanh nghiệp đã gây dựng. Nếu hình sự hóa cứng nhắc, doanh nhân sẽ không còn cơ hội sửa sai, quay trở lại làm ăn chân chính”, ông Cường nói và đề xuất cần một hệ thống phân loại rạch ròi là hành vi vi phạm có thể khắc phục thì ưu tiên xử lý hành chính hoặc tài chính, chỉ khi nào có dấu hiệu trục lợi, cố ý gây thiệt hại nghiêm trọng mới chuyển hướng hình sự.
Đây cũng là nội dung được Phó Thủ tướng Nguyễn Chí Dũng đánh giá là rất quan trọng, rất mới và nổi bật khi đề cập đến những nội dung đột phá của Nghị quyết số 68-NQ/TW ngay sau khi Nghị quyết này được ban hành.
Theo Phó Thủ tướng Nguyễn Chí Dũng, nếu trong trường hợp quy định của pháp luật có thể hiểu theo hướng xử lý hình sự cũng được, hoặc không xử lý hình sự cũng được (tức là có những tình huống nằm ở ranh giới) thì Nghị quyết yêu cầu cương quyết không xử lý hình sự.
Còn trong trường hợp đã đến mức phải xử lý hình sự, thì vẫn ưu tiên sử dụng các biện pháp kinh tế để khắc phục hậu quả trước và lấy kết quả khắc phục đó làm cơ sở để xem xét, giải quyết các bước tiếp theo, theo hướng xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nếu doanh nghiệp đã tích cực khắc phục hậu quả. Phó Thủ tướng Nguyễn Chí Dũng cho rằng nội dung này hết sức quan trọng và mang tính đột phá cao.
Cùng với đó, Nghị quyết nhấn mạnh việc tôn vinh, khen thưởng, biểu dương đối với doanh nghiệp và doanh nhân.
"Có một cụm từ trong Nghị quyết mà tôi rất tâm đắc, đó là coi những doanh nhân là những người "chiến sĩ trên mặt trận kinh tế". Bởi họ chính là những người trực tiếp tạo ra của cải vật chất cho xã hội, trực tiếp đóng thuế, đóng góp vào ngân sách Nhà nước, trực tiếp giải quyết việc làm cho người lao động và trực tiếp tham gia vào quá trình thúc đẩy sự phát triển của đất nước", Phó Thủ tướng chia sẻ.
Theo Phó Thủ tướng Nguyễn Chí Dũng, điểm nổi bật của Nghị quyết số 68-NQ/TW trước hết là thay đổi trong quan điểm và nhận thức về vai trò, vị trí của khu vực kinh tế tư nhân. Nếu như trước đây, chúng ta xác định khu vực kinh tế tư nhân là một bộ phận của nền kinh tế, sau đó là một bộ phận quan trọng của nền kinh tế, thì nay, Nghị quyết số 68-NQ/TW đã có một bước tiến quan trọng khi khẳng định khu vực kinh tế tư nhân là động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia.
"Chúng ta đã nhìn nhận và khẳng định đúng vai trò của khu vực này, dựa trên những đóng góp thực tiễn và vai trò của kinh tế tư nhân trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và đặt kinh tế tư nhân vào đúng vị trí xứng đáng. Đây là một thay đổi có ý nghĩa vô cùng quan trọng.
Tiếp theo, chúng ta cũng mạnh dạn trao lại những quyền chính đáng cho doanh nghiệp, bảo đảm các quyền cơ bản như quyền sở hữu tài sản, quyền tự do kinh doanh, quyền cạnh tranh bình đẳng, quyền được tiếp cận một cách công bằng với các nguồn lực của đất nước", ông Nguyễn Chí Dũng chia sẽ.
Theo Phó Thủ tướng, những quyền này thực chất đã được ghi nhận trong Hiến pháp, ví dụ như quy định người dân và doanh nghiệp được tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm. Tuy nhiên, trên thực tế, vẫn còn tồn tại không ít rào cản, gây hạn chế quyền tự do này của doanh nghiệp.
![]() |
Lãnh đạo các doanh nghiệp tư nhân tham dự tọa đàm của Thủ tướng Chính phủ với doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp để thực hiện hiệu quả Nghị quyết 68-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân, ngày 31/5/2025. |
Trong Nghị quyết số 68-NQ/TW, Bộ Chính trị cũng đã khẳng định một cách mạnh mẽ rằng doanh nghiệp được quyền tự do kinh doanh, được hưởng sự bình đẳng trong môi trường cạnh tranh. Trước đây, doanh nghiệp được coi như một đối tượng để quản lý, nhưng bây giờ, chúng ta xác định doanh nghiệp tư nhân là đối tác để cùng với Nhà nước tham gia kiến tạo, phát triển đất nước.
Chúng ta không còn đặt nặng vấn đề quản lý theo kiểu cũ. Tất cả các cơ chế, chính sách được xây dựng đều dựa trên tinh thần lấy người dân và doanh nghiệp làm trung tâm, làm chủ thể; mọi chính sách được thiết kế ra phải xoay quanh việc phục vụ, kiến tạo điều kiện thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp phát triển. Các doanh nghiệp cũng được tạo điều kiện tham gia vào các dự án lớn, các dự án mang tính chiến lược, các dự án quan trọng của quốc gia.
"Có thể thấy đây là một cuộc cách mạng về tư duy và thể chế, dẫn đến những thay đổi rất lớn. Ví dụ như chủ trương bỏ cơ chế "xin – cho", từ bỏ tư duy "không quản được thì cấm", một tư duy an toàn nhưng kìm hãm sự phát triển", Phó Thủ tướng nói.
Cũng theo Phó Thủ tướng, trước đây, đôi khi chúng ta tự tạo ra những rào cản, rồi sau đó lại tháo gỡ và coi đó là cải cách, đổi mới. Lần này, chúng ta chủ động thiết kế, kiến tạo một môi trường thuận lợi cho sự phát triển, để dòng chảy kinh tế được lưu thông một cách tự nhiên, thậm chí làm cho chảy nhanh hơn, đúng hướng hơn, tốt hơn, chứ không phải là ngăn cấm.
Chúng ta coi doanh nghiệp là đối tác và đã mạnh dạn chuyển từ cơ chế tiền kiểm sang hậu kiểm. Đây là những thay đổi rất lớn về thể chế. Thay vì quản lý theo "hình nón ngược", siết chặt đầu vào nhưng lỏng lẻo đầu ra, chúng ta học tập kinh nghiệm các nước, làm theo "hình chiếc phễu". Đó là tạo điều kiện cho đầu vào thông thoáng, tự do, nhưng quản lý đầu ra rất chặt chẽ bằng các công cụ, tiêu chuẩn, quy chuẩn, tăng cường giám sát, kiểm tra. Điều này sẽ giúp doanh nghiệp giảm bớt khó khăn khi gia nhập thị trường, giảm chi phí và thời gian.
![]() |
Một nội dung nữa rất đáng chú ý là Nghị quyết 68-NQ/TW đã mở ra một kỷ nguyên mới cho kinh tế tư nhân, đặc biệt là tạo điều kiện thuận lợi cho người trẻ khởi nghiệp.
Nghị quyết 68-NQ/TW định hướng khởi nghiệp không chỉ là con đường làm giàu, mà còn là cách để mọi người đóng góp vào mục tiêu quốc gia là đạt 2 triệu doanh nghiệp tư nhân vào năm 2030 và 3 triệu vào năm 2045. Như vậy, Nghị quyết đã khơi dậy mạnh mẽ tinh thần doanh nhân, thúc đẩy văn hóa đổi mới, sáng tạo và xây dựng một thế hệ lãnh đạo kinh tế tương lai.
Một điểm đột phá nữa của Nghị quyết 68-NQ/TW là đề cao ý thức làm giàu hợp pháp như một trách nhiệm công dân trong thời đại mới. Theo đó, làm giàu không còn bị nhìn nhận là tư lợi, mà là biểu hiện tích cực nếu nó đồng hành với việc tạo ra giá trị, việc làm, sản phẩm nội địa và nghĩa vụ thuế với Nhà nước.
Với Nghị quyết 68-NQ/TW, tư duy "mèo nhỏ bắt chuột nhỏ" cũng đã trở thành một cách tiếp cận thực tế, hợp thời của một số bạn trẻ. Không cần chờ có văn phòng, trụ sở hoành tráng hay vốn đầu tư khủng mà khởi nghiệp cũng có thể bắt đầu bằng những việc rất nhỏ như bán sản phẩm quà tặng, kinh doanh hoa. Như trường hợp của chị Nguyễn Thị Thu Hà (SN 1993), Giám đốc Công ty TNHH thương mại và dịch vụ quà tặng HaNi, là một minh chứng cho tinh thần khởi nghiệp.
![]() |
Chị Nguyễn Thị Thu Hà, Giám đốc Công ty TNHH Thương mại & Dịch vụ Quà tặng HaNi. |
Khoảng 6 năm trước, sau khi lập gia đình và sống tại Hà Nội, chị Nguyễn Thị Thu Hà mở một cửa hàng nhỏ kinh doanh và sản xuất các sản phẩm quà tặng tại quận Cầu Giấy. Xuất phát từ đam mê hoa tươi, mong muốn mang đến cho mọi người những món quà tinh thần, cửa hàng của chị chuyên kinh doanh các sản phẩm hoa tươi, hộp quà tặng, hộp hoa.
Với tinh thần khởi nghiệp và khát vọng làm giàu chính đáng, mong muốn tạo ra giá trị cho xã hội, sau nhiều năm kinh doanh nhỏ, chị Nguyễn Thị Thu Hà đã quyết định vay vốn để thành lập doanh nghiệp với cái tên là Công ty TNHH Thương mại & Dịch vụ Quà tặng HaNi.
Với tâm huyết và sự nỗ lực không ngừng của nữ Giám đốc 9X, sau vài tháng thành lập, công ty của chị hiện đã xây dựng được đội ngũ nhân viên chuyên nghiệp, có nguồn thu và bắt đầu có lãi đều đặn. “Với sức trẻ, tôi muốn đương đầu với thử thách để khẳng định mình. Càng khó khăn, cạnh tranh càng cao thì chúng tôi sẽ phải càng nỗ lực và quyết tâm nhiều hơn”, chị Nguyễn Thị Thu Hà chia sẻ.
Theo chị Hà, mặc dù thành lập doanh nghiệp phải trải qua các thủ tục và chịu nhiều chi phí hơn, song để phát triển lâu dài và tạo ra giá trị xã hội thì việc mở doanh nghiệp là việc phải làm, đặc biệt là trong thời điểm Đảng, Nhà nước đang khuyến khích chuyển đổi mô hình từ hộ kinh doanh sang doanh nghiệp như lúc này.
"Đây là thời điểm không thể tốt hơn để khởi nghiệp. Với Nghị quyết 68-NQ/TW, chúng ta được ưu đãi về thuế, vốn thì chúng ta cần mạnh dạn thử sức mình, thay đổi mình để lớn lên. Với tôi, khi chuyển sang mô hình doanh nghiệp ban đầu cũng chỉ có tư duy "mèo nhỏ bắt chuột nhỏ" để nuôi mình, sau đó ổn định rồi sẽ tính đến việc phát triển, mở rộng thêm các chi nhánh", chị Hà chia sẻ thêm.
Có thể thấy, Nghị quyết 68-NQ/TW tiếp tục tạo ra những tác động tích cực, khơi dậy tinh thần khởi nghiệp trong giới trẻ và thúc đẩy sự phát triển kinh tế. Các cơ chế, chính sách đặc thù hỗ trợ khởi nghiệp đã truyền cảm hứng cho người trẻ dám nghĩ, dám làm, lan tỏa tinh thần doanh nhân, khuyến khích thế hệ trẻ biến ý tưởng thành hiện thực.
Các khởi nghiệp thành công của giới trẻ không chỉ mang lại lợi ích cá nhân mà còn tạo việc làm và tăng trưởng kinh tế. Theo ước tính, mỗi start-up thành công có thể tạo ra 10-50 việc làm trực tiếp, chưa kể các tác động gián tiếp đến chuỗi cung ứng. Đến năm 2030, nếu đạt mục tiêu 2 triệu doanh nghiệp tư nhân, người trẻ sẽ đóng góp đáng kể vào 60% GDP, như kỳ vọng của Nghị quyết 68-NQ/TW.
![]() |
Các cơ chế, chính sách đặc thù hỗ trợ khởi nghiệp đã truyền cảm hứng cho người trẻ dám nghĩ, dám làm, lan tỏa tinh thần doanh nhân, khuyến khích thế hệ trẻ biến ý tưởng thành hiện thực. |
Ở chiều ngược lại, mặc dù Nghị quyết 68-NQ/TW mang lại nhiều cơ hội, người trẻ vẫn đối mặt với một số thách thức. Đó là thiếu kinh nghiệm quản trị khiến nhiều start-up thất bại trong 1-2 năm đầu; cùng đó là cạnh tranh khốc liệt từ các doanh nghiệp lớn và start-up quốc tế đòi hỏi người trẻ phải nâng cao năng lực. Mặt khác, nếu một số địa phương triển khai Nghị quyết không đồng bộ sẽ dẫn đến khó khăn trong tiếp cận hỗ trợ.
Do đó, để khắc phục, các chuyên gia cho rằng, cần tăng cường đào tạo kỹ năng mềm và quản trị cho người trẻ, mở rộng mạng lưới vườn ươm doanh nghiệp đến các tỉnh, thành và nâng cao hiệu quả thực thi chính sách ở cấp địa phương. Đồng thời, người trẻ, các nhà khởi nghiệp cần chủ động học hỏi, kết nối với các tổ chức hỗ trợ và tận dụng tối đa các cơ hội từ nghị quyết.
Như vậy, Nghị quyết 68-NQ/TW là chiếc chìa khóa mở ra cánh cửa khởi nghiệp cho người trẻ Việt Nam, với nhiều chính sách hỗ trợ. Bằng cách khơi dậy tinh thần doanh nhân, Nghị quyết không chỉ giúp người trẻ hiện thực hóa giấc mơ kinh doanh mà còn biến họ thành lực lượng tiên phong trong xây dựng nền kinh tế hiện đại, bền vững.
Còn tiếp...
Bài viết: Hậu Lộc Đồ họa: Trung Đức |
LOẠT BÀI VIẾT “NGHỊ QUYẾT MỞ RA KỶ NGUYÊN MỚI CHO KINH TẾ TƯ NHÂN”
Bài 1: Đảng mở lối, trao đòn bẩy
Bài 2: Bản tuyên ngôn soi đường