|
Bộ Tài nguyên và Môi trường (TN&MT) được thành lập theo Nghị quyết số 02/2002/QH11 ngày 5 tháng 8 năm 2002. Là một trong những Bộ đa ngành đầu tiên với 6 lĩnh vực quản lý, đến nay, qua 4 lần kiện toàn Bộ đã được giao thực hiện chức năng, nhiệm vụ quản lý trên 9 lĩnh vực gồm: Đất đai, tài nguyên nước, địa chất và tài nguyên khoáng sản, môi trường, khí tượng thủy văn, đo đạc và bản đồ, quản lý tổng hợp tài nguyên, môi trường biển và hải đảo, biến đổi khí hậu, viễn thám; Trong đó các lĩnh vực quản lý nguồn lực đầu vào của nền kinh tế, có ảnh hưởng lớn đến quốc phòng, an ninh, sự phát triển bền vững của đất nước, có liên quan trực tiếp đến người dân, doanh nghiệp. |
|
Trên nền tảng được tạo dựng của các lĩnh vực tiền thân, với sự tận tâm, trách nhiệm và trí tuệ của các thế hệ tiếp nối trong 20 năm qua, ngành TN&MT vượt qua khó khăn, thách thức, chủ động nắm bắt thuận lợi, thời cơ, từng bước củng cố vững chắc nền tảng, khẳng định vị thế, vai trò quan trọng trong tiến trình phát triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập sâu rộng kiến tạo tương lai bền vững của đất nước, những đổi thay tích cực đã mang lại cho Nhân dân đời sống tốt đẹp hơn. |
|
Ngay sau khi được thành lập vào tháng 8/2002, Ban Cán sự Đảng, lãnh đạo Bộ TN&MT đã tập trung chỉ đạo nhanh chóng ổn định tổ chức, tập trung xây dựng, hoàn thiện thể chế, đẩy mạnh cải cách hành chính, thực hiện phân công, phân cấp hợp lý cho các các bộ và chính quyền địa phương; Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, đặc biệt là lĩnh vực đất đai; Chú trọng công tác điều tra cơ bản, dự báo; Xây dựng đội ngũ cán bộ của toàn ngành. |
|
Trong một thời gian ngắn, Bộ TN&MT đã xây dựng, trình Chính phủ ban hành Nghị định số 91/2002/NĐ-CP ngày 11/11/2002 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ TN&MT, bảo đảm phù hợp với nội dung và yêu cầu quản lý nhà nước; Phối hợp với Bộ Nội vụ, trình Thủ tướng Chính phủ ban hành quyết định thành lập Sở TN&MT cấp tỉnh và Phòng TN&MT cấp huyện; Hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức của cơ quan chuyên môn giúp Ủy ban Nhân dân các cấp quản lý Nhà nước về TN&MT. |
|
Bộ trưởng Mai Ái Trực và các Thứ trưởng đã dành nhiều thời gian, tâm sức và trực tiếp chỉ đạo. Luật Đất đai năm 2003, Luật Bảo vệ môi trường năm 2005, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Khoáng sản và hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về TN&MT được xây dựng khá đồng bộ, kịp thời tạo lập môi trường pháp lý thuận lợi cho các hoạt động kinh tế - xã hội và tăng cường quản lý Nhà nước về lĩnh vực TN&MT. Hệ thống các quy hoạch, chiến lược nhất là hệ thống quy hoạch sử dụng đất được xây dựng khá đồng bộ từ quốc gia đến cấp xã. Chiến lược quốc gia về tài nguyên nước đến năm 2020 đã được ban hành theo Quyết định số 81/2006/QĐ-TTg ngày 14/4/2006 của Thủ tướng Chính phủ. |
|
Với phương châm hướng về địa phương cơ sở, người dân, doanh nghiệp, công tác cải cách hành chính nhất là cải cách thủ tục hành chính, tăng cường tính công khai, minh bạch, đơn giản, thuận tiện cho người dân và doanh nghiệp được triển khai đồng bộ. Bộ TN&MT là một trong số ít các Bộ đi tiên phong trong việc triển khai áp dụng cơ chế “một cửa”, thí điểm mô hình “một cửa liên thông”, tổ chức giao lưu trực tuyến với Nhân dân và doanh nghiệp, thiết lập kênh thông tin trả lời tổ chức, công dân về TN&MT. Bộ trưởng Bộ TN&MT đã ban hành Chỉ thị cải tiến lề lối làm việc, hướng về địa phương và cơ sở, tạo ra sự chuyển biến tích cực trong hoạt động của cơ quan thuộc Bộ, được Nhân dân và doanh nghiệp hoan nghênh. Việc tham gia của các cơ quan thông tấn, báo chí vào các hoạt động của Bộ đã được khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi. |
|
Công tác kiểm tra, thanh tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo, nhất là trong lĩnh vực đất đai đã được quan tâm, Bộ trưởng, lãnh đạo Bộ đã dành nhiều thời gian tiếp dân, kiểm tra việc giải quyết khiếu nại, tố cáo. Bộ TN&MT đã chủ động thành lập các đoàn kiểm tra, thanh tra về TN&MT do lãnh đạo Bộ chủ trì, trực tiếp làm việc với các địa phương, cơ sở. Nhiều điểm nóng, vụ việc về đất đai, môi trường đã được xử lý, giải quyết; Việc chấp hành chính sách, pháp luật về TN&MT ngày càng nghiêm chỉnh, góp phần quan trọng vào ổn định xã hội. |
|
Các nguồn tài nguyên đất đai, nước, khoáng sản sử dụng hiệu quả hơn, chuyển dịch phù hợp với chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế, góp phần quan trọng vào tăng trưởng với nhịp độ cao ở giai đoạn 2002 - 2007; Nguồn thu từ đất tăng từ 4,4% tổng thu ngân sách Nhà nước năm 2002 lên 10% vào năm 2007. Cả nước đã thực hiện cấp giấy chứng nhận đối với 7.485.643ha đất sản xuất nông nghiệp, đạt 82,1%; 8.116.154ha đất lâm nghiệp, đạt 62,1%; 64.357ha đất ở đô thị, đạt 62,2%; 383.165ha đất ở nông thôn, đạt 76,5%. |
|
Công tác bảo vệ môi trường đã được quan tâm, tăng cường xã hội hóa, các vấn đề bức xúc về môi trường được quan tâm giải quyết, xử lý kịp thời. Công tác điều tra cơ bản, dự báo tiếp tục được quan tâm, củng cố theo hướng lồng ghép, tận dụng tối đa cơ sở vật chất, kỹ thuật, nguồn lực trong các lĩnh vực để bảo đảm đầu tư có hiệu quả, hiệu suất cao. Bộ TN&MT đã trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy hoạch tổng thể mạng lưới quan trắc tài nguyên và môi trường quốc gia đến năm 2020; Kiện toàn các tổ chức sự nghiệp thực hiện nhiệm vụ điều tra cơ bản, quan trắc, dự báo. Trong thời gian này, công tác quan trắc môi trường, đo đạc, lập bản đồ điều tra cơ bản địa chất, khoáng sản biển, điều tra tài nguyên và môi trường biển, dự báo khí tượng thủy văn đã được đẩy mạnh. Đội ngũ cán bộ, công chức của ngành từ trung ương đến cơ sở đã được chú trọng đào tạo, bồi dưỡng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới; Số lượng và chất lượng đã được nâng lên một bước. |
|
|
Tình hình kinh tế, chính trị khu vực và thế giới có những diễn biến phức tạp khó lường, nhất là những tác động bất lợi của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu; Thiên tai, dịch bệnh xảy ra liên tiếp trên diện rộng gây thiệt hại khá nghiêm trọng cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Trong bối cảnh đó, ngành TN&MT đã thực hiện chủ trương đẩy mạnh kinh tế hóa ngành với mục tiêu phát huy tối đa nguồn lực phục vụ phát triển kinh tế - xã hội; Coi đây vừa là mục tiêu, vừa là phương tiện với mục tiêu nhanh chóng xây dựng ngành TN&MT là một ngành kinh tế - kỹ thuật chính quy, hiện đại, hội nhập quốc tế, phục vụ đắc lực cho công cuộc phát triển bền vững đất nước. |
|
Để đảm bảo có một đầu mối tập trung, thống nhất quản lý Nhà nước về TN&MT, Chính phủ đã bổ sung thêm chức năng quản lý Nhà nước về địa chất; Biến đổi khí hậu; Quản lý tổng hợp và thống nhất về biển và hải đảo; Bổ sung một số nhiệm vụ mới được phân công, còn thiếu hoặc chưa được quy định cho phù hợp với các văn bản quy phạm pháp luật liên quan; Từng bước xác định rõ vai trò, nhiệm vụ của một Bộ quản lý tổng hợp về tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường với các Bộ, ngành khác; Giữ vai trò quản lý Nhà nước về khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên. Hệ thống tổ chức bộ máy quản lý Nhà nước về TN&MT ở địa phương cũng được kiện toàn hơn. |
|
Các chiến lược, quy hoạch trong tất cả các lĩnh vực của Bộ đã được tập trung xây dựng, trình ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền. Luật Đa dạng sinh học, Luật Khoáng sản (sửa đổi) đã được ban hành cùng với hệ thống văn bản dưới luật được ban hành thể hiện bước tiến mới trong tư duy lập pháp, chú trọng tính đồng bộ, thống nhất, minh bạch của các quy định; Xác lập rõ quyền của công dân và trách nhiệm của cơ quan Nhà nước; Giảm mạnh sự can thiệp hành chính vào các quan hệ kinh tế, dân sự. Bộ TN&MT đã tham mưu cho Chính phủ ban hành Nghị quyết số 27/NQ-CP ngày 12/6/2009 về một số giải pháp cấp bách trong công tác quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường; Ban Cán sự Đảng Bộ TN&MT đã ban hành Nghị quyết số 27-NQ/BCSĐTNMT ngày 2/12/2009 về đẩy mạnh kinh tế hóa ngành. Đây là những tư tưởng, văn kiện quan trọng định hướng sự phát triển của ngành trong giai đoạn 2007 - 2011 và những năm tiếp theo. |
|
Cải cách hành chính trong ngành đã được đẩy mạnh thông qua việc giảm các bước, quy trình xử lý công việc, đơn giản hóa, giảm mạnh chi phí thực hiện thủ tục hành chính đối với Nhân dân và doanh nghiệp. Công tác hợp tác quốc tế đã góp phần quan trọng thực hiện chủ trương đa dạng hóa nguồn vốn đầu tư của ngành TN&MT. Hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước đã được nâng cao. Trong bối cảnh khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu chủ trương kinh tế hóa trong quản lý tài nguyên và môi trường, đặc biệt trong các lĩnh vực: Địa chất khoáng sản, quản lý đất đai và tài nguyên nước đã từng bước nâng cao giá trị đóng góp cho ngân sách, tạo thêm xung lực cho đầu tư phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Nguồn thu từ đất đai chiếm khoảng 11% tổng thu ngân sách hàng năm. |
|
Công tác bảo vệ môi trường được chú trọng từ nhận thức và hành động; Gắn mục tiêu bảo vệ môi trường với phát triển kinh tế - xã hội được lồng ghép vào trong các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển, các chương trình dự án. Bộ tập trung khắc phục suy thoái môi trường, bảo vệ các hệ sinh thái; Chú trọng phát triển kinh tế xanh, thuận thiện với môi trường. Xã hội hóa trong công tác bảo vệ môi trường được đẩy mạnh. Chiến lược phát triển ngành Khí tượng thủy văn đến năm 2020 được phê duyệt với mục tiêu đại hóa công nghệ dự báo và mạng lưới quan trắc khí tượng thủy văn. Trong bối cảnh biến đổi khí hậu được nhận diện là thách thức nghiêm trọng nhất đối với toàn nhân loại, ảnh hưởng sâu sắc và làm thay đổi toàn diện đời sống xã hội toàn cầu được coi là vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với sự phát triển của đất nước, ngành đã tham mưu cho Chính phủ ban hành Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu. |
|
Công tác điều tra cơ bản được tập trung triển khai trên đất liền và trên biển nhằm nắm chắc tiềm năng, nguồn lực tài nguyên, đặc biệt là điều tra nghiên cứu các di sản địa chất tạo cơ sở khoa học phục vụ việc xây dựng Geopark ở Việt Nam, mở ra hướng đi mới cho ngành địa chất Việt Nam; Xây dựng luận chứng kỹ thuật, trình UNESCO công nhận cao nguyên đá vôi Đồng Văn là di sản địa chất thế giới. |
|
|
Tình hình thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp, khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế, lạm phát, nợ công, giá cả tăng vọt, biến động chính trị một số nước và khu vực đã tác động đến kinh tế - xã hội nước ta; Thiên tai, lũ lụt nghiêm trọng ở nhiều nơi; Các vấn đề an ninh phi truyền thống trở thành thách thức lớn đối với ngành TN&MT. |
|
Để vượt qua khó khăn và thách thức, ngành đã chủ động tham mưu cho Đảng, Nhà nước ban hành và tổ chức thực thi nhiều chủ trương, chính sách để phát huy nguồn lực tài nguyên, bảo vệ môi trường và chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu như: Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 31/10/2012 về tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 3/6/2013 về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường; Nghị quyết số 02-NQ/TW ngày 25/4/2011 về định hướng chiến lược khoáng sản và công nghiệp khai khoáng đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030; Trình ban hành Luật Tài nguyên nước năm 2012, Luật Đất đai năm 2013, Luật Bảo vệ môi trường năm 2014; Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo năm 2015; Luật Khí tượng thủy văn 2015 và hệ thống các văn bản dưới Luật... từ đó phát huy nguồn lực TN&MT cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; Đồng thời góp phần ngăn ngừa, hạn chế tiêu cực, tham nhũng, lãng phí, làm giảm khiếu kiện, các yếu tố dẫn đến sự mất ổn định xã hội, đặc biệt trong lĩnh vực đất đai, môi trường. |
|
Các chiến lược, quy hoạch, chương trình mục tiêu quốc gia về quản lý TN&MT cũng được ban hành như: Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu; Chiến lược khoáng sản đến năm 2020 tầm nhìn đến 2030; Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030; Chiến lược quốc gia về đa dạng sinh học đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030; Chiến lược quốc gia về tài nguyên nước đến năm 2020; Chiến lược khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên và bảo vệ môi trường biển đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030; Quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 và kế hoạch sử dụng đất 5 năm (2011 - 2015) cấp quốc gia; Quy hoạch hệ thống mạng lưới quan trắc TN&MT quốc gia đến 2020; Quy hoạch tổng thể bảo tồn đa dạng sinh học trên cả nước đến năm 2020, tầm nhìn đến 2030; Quy hoạch điều tra cơ bản về địa chất khoáng sản đến năm 2020 tầm nhìn đến 2030; Chương trình mục tiêu quốc gia về khắc phục ô nhiễm và cải thiện môi trường giai đoạn 2012 - 2015… |
|
Tổ chức bộ máy của ngành tiếp tục được quan tâm, xây dựng, củng cố kiện toàn, bổ sung thêm chức năng quản lý Nhà nước về biến đổi khí hậu, phát triển công nghệ viễn thám; Phân định trách nhiệm cụ thể giữa Bộ TN&MT với các Bộ, ngành khác về định giá đất, quản lý nước các lưu vực sông, đa dạng sinh học, sức khỏe môi trường, quản lý chất thải rắn, chất thải nguy hại; Tăng cường nhiệm vụ về địa chất khoáng sản theo quy định của Luật Khoáng sản. Cải cách tài chính công đã được thực hiện đồng bộ và toàn diện, đẩy mạnh việc phân cấp quản lý. Hợp tác, hội nhập quốc tế tiếp tục được mở rộng và đạt được nhiều thành tựu 5 điều ước quốc tế song phương; 30 điều ước quốc tế đa phương, 18 thỏa thuận quốc tế do Bộ là cơ quan chủ trì thực hiện đã được ký kết, tổ chức triển khai mở ra một chương mới trong hoạt động đối ngoại về TN&MT “chủ động, tăng cường tiếng nói của Việt Nam trong các vấn đề toàn cầu”. |
|
Bộ TN&MT tăng cường quản lý, nghiên cứu, triển khai và ứng dụng khoa học và công nghệ với 2 nhiệm vụ nghiên cứu khoa học và công nghệ cấp Nhà nước; 7 chương trình khoa học và công nghệ cấp Bộ. Các hoạt động điều tra cơ bản về đất đai, tài nguyên nước, địa chất về khoáng sản, môi trường, tài nguyên trên biển, hải đảo được triển khai có trọng tâm, trọng điểm. Lần đầu tiên Việt Nam có một cơ sở dữ liệu thông tin địa lý tỷ lệ 1:10000 phủ trùm cả nước, đáp ứng nhu cầu quản lý Nhà nước về lãnh thổ, quản lý các hoạt động kinh tế - xã hội, quy hoạch phát triển bền vững, bảo đảm quốc phòng, an ninh, phòng chống thiên tai, giám sát khai thác tài nguyên thiên nhiên, kiểm soát tình trạng môi trường. |
|
Các nguồn tài nguyên được sử dụng hợp lý, phát huy hiệu quả, đóng góp quan trọng cho tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Nguồn thu từ đất 5 năm trong giai đoạn 2011 - 2015 đạt 280,04 nghìn tỷ, trung bình chiếm từ 8 - 10% thu ngân sách nội địa; Thu từ tiền cấp quyền khai thác khoáng sản đạt 29.090 tỷ đồng. Đặc biệt, Bộ đã cơ bản hoàn thành việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo Nghị quyết số 30/2012/QH13 của Quốc hội; Hoàn thành việc xây dựng quy trình vận hành liên hồ chứa trên các lưu vực sông. Việt Nam gia nhập Công ước về Luật sử dụng các nguồn nước liên quốc gia cho mục đích phi giao thông thủy. Việc gia nhập Công ước thể hiện rõ cam kết của Việt Nam đối với nguyên tắc công bằng, hợp lý trong sử dụng các nguồn nước liên quốc gia; Tạo cơ sở pháp lý cho việc vận động, thúc đẩy hợp tác bảo đảm an ninh nguồn nước và phát triển bền vững các lưu vực sông liên quốc gia trong khu vực. Các tiềm năng, lợi thế về tài nguyên biển được khai thác sử dụng cho phát triển các ngành kinh tế biển. |
|
Công tác bảo vệ môi trường được chú trọng gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng. Các biện pháp bảo vệ môi trường, phòng ngừa và xử lý cơ sở gây ô nhiễm nghiêm trọng được tích cực thực hiện. Tỉ lệ thu gom, xử lý chất thải nguy hại đạt 75%; Tỉ lệ cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng được xử lý đạt 90% vào năm 2015. |
|
Công tác phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai được chú trọng, đạt nhiều kết quả. Năng lực cảnh báo, dự báo thiên tai được tăng cường, chất lượng có bước được nâng lên. Công nghệ viễn thám được sử dụng trong giám sát tài nguyên, giám sát lãnh thổ nhất là các vùng biển, đảo. Nhiều dự án ứng phó với biến đổi khí hậu kết hợp phòng, chống thiên tai được triển khai, tranh thủ được sự hợp tác, hỗ trợ của nhiều đối tác quốc tế. |
|
|
Đây là giai đoạn có nhiều thuận lợi từ những nền tảng tạo dựng của các thế hệ trước, nhưng ngành TN&MT cũng phải đối mặt với không ít khó khăn, thách thức to lớn từ mô hình tăng trưởng thiếu bền vững dựa vào tài nguyên, nhân lực giá rẻ, thâm dụng vào môi trường. Sự cố môi trường biển gây hậu quả nghiêm trong tại 4 tỉnh miền Trung, hạn hán diễn ra gay gắt tại các tỉnh Tây Nguyên, Nam Trung Bộ, xâm nhập mặn nghiêm trọng chưa từng có ở Đồng bằng sông Cửu Long đặt ra những thách thức to lớn về an ninh môi trường, an ninh nguồn nước. Biến đổi khí hậu, suy thoái hệ sinh thái tự nhiên, đại dịch COVID-19 đã trở thành “khủng hoảng kép”, tác động nghiêm trọng đến mọi mặt đời sống, sản xuất, kinh doanh trên phạm vi toàn cầu và Việt Nam. |
|
Tuy nhiên, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Quốc hội, chỉ đạo điều hành sâu sát của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, sự phối hợp của các Bộ, ngành, sự vào cuộc của địa phương, toàn ngành TN&MT đã chủ động ứng phó, giải quyết một cách bài bản, khoa học với tinh thần trách nhiệm cao để từng bước chuyển hóa thách thức thành cơ hội, tập trung tháo gỡ các rào cản, giải phóng nguồn lực tài nguyên cho phát triển kinh tế - xã hội, tạo sự chuyển biến thực chất trên các lĩnh vực; Chuẩn bị và tham mưu để Đảng và Nhà nước ban hành những chủ trương, chính sách lớn mang tầm chiến lược dài hạn cho giai đoạn phát triển mới của đất nước. |
|
Thể chế, chính sách, pháp luật tiếp tục là định hướng ưu tiên, tư duy làm chính sách cũng được đổi mới chuyển từ thắt chặt quản lý sang kiến tạo môi trường thuận lợi, dẫn dắt và thúc đẩy phát triển; Đặc biệt, chú trọng tổng kết, đánh giá sát đúng thực tiễn, phân tích dự báo các xu thế phát triển trong điều kiện hội nhập, đánh giá các tác động để chính sách không chỉ giải đúng và trúng các vấn đề đặt ra từ quản lý mà còn tạo dư địa, động lực mới để giải phóng các nguồn lực tài nguyên cho phát triển kinh tế - xã hội, thúc đẩy chuyển đổi mô hình phát triển bền vững, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, giảm phát thải. Nhiều chủ trương quan trọng đã được ngành tham mưu cho Đảng, Nhà nước ban hành như: Nghị quyết số 36/NQ-TW ngày 22/10/2018 của Ban Chấp hành Trung ương về phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 10/2/2022 của Bộ Chính trị về định hướng chiến lược địa chất, khoáng sản và công nghiệp khai khoáng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Chỉ thị số 10-CT/TW ngày 25/9/2021 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác khí tượng thủy văn đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Bộ TN&MT phối hợp với Ban Kinh tế Trung ương tổng kết, sơ kết đề xuất Ban Chấp hành Trung ương ban hành Nghị quyết số 18-NQ/TW về "Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý và sử dụng đất, tạo động lực đưa nước ta trở thành nước phát triển có thu nhập cao". Đặc biệt, Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 được Quốc hội thông qua thiết lập hành lang pháp lý đồng bộ, thống nhất, đột phá để đưa công tác bảo vệ môi trường thực sự trở thành trụ cột của phát triển bền vững trong giai đoạn mới, đáp ứng yêu cầu hội nhập, phù hợp xu thế, luật quốc tế, hướng tới mục tiêu cao nhất là đảm bảo môi trường sống trong lành cho Nhân dân. |
|
Công tác chuyển đổi số được đẩy mạnh trên nền tảng tài nguyên số, dữ liệu về thông tin địa lý, dữ liệu đất đai, dữ liệu viễn thám... hướng tới phát triển kinh tế số ngành TN&MT. Cải cách thể chế, kiện toàn tổ chức bộ máy giảm khâu trung gian, quy trình hóa các khâu trong giải quyết thủ tục và hiện đại hóa nền hành chính được triển khai đồng bộ. Bộ về đích hoàn thành mục tiêu của Chính phủ về phát triển chính phủ điện tử với 100% thủ tục được thực hiện trực tuyến, 80% ở cấp độ 4; Việc xử lý, giải quyết hồ sơ, ký số được thực hiện hoàn toàn trên môi trường mạng (trừ văn bản mật); Các hoạt động chỉ đạo điều hành, các Hội nghị, diễn đàn của Liên hợp quốc, cuộc họp, đàm phán được thực hiện trực tuyến, đảm bảo thông suốt. Năm 2021, tỷ lệ người dân hài lòng về dịch vụ công về đất đai, môi trường tăng 4,14%; tỷ lệ người dân quan ngại về môi trường giảm từ 8,85% năm 2019 xuống còn 4,03%; Chỉ số phát triển bền vững của Việt Nam ở vị trí 51/165 quốc gia và vùng lãnh thổ tăng 37 bậc so với năm 2016 (vị trí 88). Bộ TN&MT xếp thứ 6 trong số các Bộ, ngành về chỉ số cải cách hành chính. Nhiều chương trình, công trình nghiên cứu khoa học đóng góp cho thực tiễn; Hỗ trợ đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học. Nhiều nhà khoa học xuất sắc được vinh danh là nhà khoa học tiêu biểu của Châu Á, nhà khoa học trẻ tài năng Thế giới 2022. |
|
Ngành TN&MT chủ động hội nhập, đóng góp nhiều sáng kiến quy mô toàn cầu, khu vực liên quan đến giải quyết ô nhiễm rác thải nhựa đại dương, ứng phó biến đổi khí hậu, phòng ngừa ô nhiễm môi trường xuyên biên giới, quản lý và sử dụng bền vững. Đặc biệt, việc tham gia Thỏa thuận Paris về biến đổi khí hậu năm 2016 và đưa ra tuyên bố cam kết đạt mức phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050 tại Hội nghị Thượng đỉnh về biến đổi khí hậu (COP26) năm 2021 mang lại cho Việt Nam cơ hội tiếp cận tri thức, công nghệ, tài chính xanh để thực hiện tái cơ cấu lại nền kinh tế, phát triển theo hướng kinh tế các-bon thấp, kinh tế tuần hoàn, cũng như chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu. Bộ TN&MT phối hợp với các bộ, ngành, địa phương hoàn thành phân giới, cắm mốc trên thực địa (khoảng 84%) trên toàn tuyến biên giới trên đất liền Việt Nam - Campuchia; Thực hiện hỗ trợ quốc tế đối với Lào, Campuchia trong công tác dự báo khí tượng, chia sẻ kinh nghiệm xây dựng pháp luật, dữ liệu nền thông tin địa hình cơ bản phục vụ quy hoạch, phát triển kinh tế - xã hội và giám sát TN&MT. |
|
Công tác bảo vệ môi trường đã tạo được chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức và hành động của toàn xã hội, là vấn đề sống còn và trung tâm của phát triển. Tư duy bảo vệ môi trường đã chuyển bị động ứng phó, khắc phục sang chủ động phòng ngừa, kiểm soát, phục hồi môi trường, các hệ sinh thái. Bài toán về rác thải đã có lời giải với các dự án, mô hình công nghệ tái chế, tái sử dụng, biến rác thải thành tài nguyên. Các chỉ số về môi trường có sự chuyển biến: Tỷ lệ chất thải rắn sinh hoạt được thu gom xử lý tăng trung bình 6%/năm với nhiều mô hình hiệu quả1; Tỷ lệ thu gom xử lý chất thải rắn công nghiệp đạt 90%; Tỷ lệ KCN, KCX đang hoạt động có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường đạt 90%; Số xã đạt tiêu chí chuẩn Nông thôn mới về môi trường tăng 8,3%. Nhiều dự án thu gom xử lý nước thải, bổ cập nước để phục hồi xanh hóa các dòng sông. |
|
Các nguồn tài nguyên đã được quản lý tổng hợp, sử dụng hiệu quả, đa mục đích. Bỗ đã thực hiện chuyển dịch hơn 230 nghìn héc ta đất sang các mục đích phi nông nghiệp đáp ứng yêu cầu mặt bằng cho phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng, công nghiệp, dịch vụ, đô thị và nhà ở; Đưa 926 nghìn héc ta đất chưa sử dụng vào sử dụng chủ yếu cho phát triển rừng. Đóng góp từ tài nguyên cho ngân sách Nhà nước nước trong giai đoạn 2016 - 2021 từ đất đai là hơn 1,05 triệu tỷ đồng, từ khoáng sản là hơn 21 nghìn tỷ đồng, từ tài nguyên nước là 11,76 nghìn tỷ đồng; Phát hiện nhiều di sản địa chất với nhiều nét đặc trưng được ghi danh trên bản đồ địa chất toàn cầu. Tiềm năng lợi thế về biển được phát huy, các địa phương có biển đã trở thành khu vực phát triển năng động, thu hút nguồn lực đầu tư. Các vi phạm được thanh tra, kiểm tra xử lý, kiến nghị thu hồi gần 21,5 nghìn ha đất, truy thu hơn 444 tỷ đồng; Khiếu nại, tố cáo giảm trung bình 9 %/năm; Khiếu kiện trong lĩnh vực đất đai giảm 38% so với giai đoạn trước. |
|
Chất lượng dự báo, cảnh báo thời thiết, thiên tai ngày càng được nâng lên, với đủ độ chi tiết, tiệm cận với trình độ của các nước phát triển và ứng dụng nhiều công nghệ tiên tiến trên thế giới đóng góp quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và phục vụ đời sống của Nhân dân. Phát huy những kết quả, thành tựu đã đạt được và trước những khó khăn thách thức đang phải đối mặt, ngành TN&MT đang và sẽ không ngừng nỗ lực, phấn đấu hoàn thiện nhằm nâng cao năng lực hiệu quả quản lý, thực hiện sứ mệnh kiến tạo, thúc đẩy phát triển bền vững cho đất nước. Đến năm 2030, cơ bản đạt mục tiêu phát triển bền vững về tài nguyên, môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu. |
|