Tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XV, nhiều đại biểu đánh giá, Hà Nội phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế. Một trong những nguyên nhân lớn được chỉ ra là do quy hoạch chưa xứng tầm.
Ngày Giải phóng Thủ đô (10/10/1954) đã mở ra thời kỳ phát triển mới của Hà Nội và đất nước. Trong bối cảnh đó, Trung ương và thành phố Hà Nội khẳng định cần sớm có Quy hoạch chung Thủ đô để định hướng cho việc xây dựng và phát triển Thủ đô trong giai đoạn mới.
TS.KTS Đào Ngọc Nghiêm, nguyên Giám đốc Sở Quy hoạch Kiến trúc Hà Nội cho biết, sau hòa bình lập lại, Hà Nội đã có 7 lần thay đổi quy hoạch, 4 lần điều chỉnh địa giới hành chính. Quy hoạch chính là công cụ quan trọng quyết định tới diện mạo Thủ đô.
Sau ngày giải phóng Thủ đô năm 1954, Hà Nội tập trung khôi phục kinh tế phát triển sản xuất. Thời điểm đó, Hà Nội có tổng diện tích 152km2, gồm 8 quận huyện với 37 vạn người dân ở nội thành và 16 vạn dân ở ngoại thành. Để xây dựng Hà Nội xứng với tầm vóc là thủ đô của cả nước, tháng 4/1961, Quốc hội đã phê chuẩn mở rộng Hà Nội (lần thứ nhất) với diện tích 584km2, 91 vạn dân (4 khu nội thành là Ba Đình, Hoàn Kiếm, Đống Đa, Hai Bà Trưng và 4 khu ngoại thành là huyện Gia Lâm, Đông Anh, Thanh Trì, Từ Liêm).
Ông Nghiêm cho biết, vào những năm 1960, Hà Nội bắt đầu kế hoạch 5 năm lần thứ nhất phát triển kinh tế. Hà Nội xây dựng một số cụm công nghiệp, một số công trình kiến trúc lớn như trụ sở cơ quan, trường học, bệnh viện, giải quyết nhu cầu về nơi ở thích hợp. Một số khu công nghiệp xây dựng mới thời kỳ này là Thượng Đình, Minh Khai… Đáng kể, một số khu nhà tập thể như Kim Liên, Nguyễn Công Trứ… được xây dựng với mô hình tiểu khu nhà ở xã hội chủ nghĩa.
Ngay từ giai đoạn này, nhà nước và thành phố cho rằng cần phải sớm có quy hoạch chung Thủ đô để định hướng cho xây dựng và làm cơ sở cho phát triển kinh tế xã hội. Với sự giúp đỡ của chuyên gia Liên Xô, Trung Quốc, Ba Lan, Việt Nam đã lập phương án quy hoạch Thủ đô từ 70 vạn đến 1 triệu dân, khoảng 20.000ha đất có xu hướng phát triển về phía bắc sông Hồng. Quy hoạch chung này được duyệt vào năm 1962.
Các đại biểu dự hội thảo khoa học cấp quốc gia “Tầm nhìn mới, cơ hội mới xây dựng Thủ đô Hà Nội văn hiến - văn minh - hiện đại, thành phố kết nối toàn cầu” |
Thế nhưng, khi cuộc chiến ở miền Nam diễn ra ác liệt, Mỹ mở rộng chiến tranh ra miền Bắc, việc xây dựng phát triển Hà Nội có những khó khăn, phải chú trọng đến phân tán dân cư, việc xây dựng phải xem xét tới yếu tố an ninh quốc phòng. Tháng 2/1973 cầu Long Biên được nối liền. Đến năm 1982, thành phố đã được xây dựng mới và sửa chữa mở rộng gần 100 xí nghiệp. Một số công trình giao thông quan trọng được hoàn thành và đưa vào sử dụng như: Cầu Đuống, cảng Phà Đen, sân bay quốc tế Nội Bài, cầu Thăng Long.
Trong bối cảnh như vậy, Hà Nội rõ ràng cần xem xét lại hướng phát triển của Thủ đô đã xác lập trong quy hoạch được duyệt năm 1962. Nhiều phương án về luận chứng phát triển Thủ đô đã được nghiên cứu. Cuối cùng, đồ án quy hoạch được duyệt (năm 1974) định hướng Hà Nội cũ với 40 vạn dân, phát triển Thủ đô ở Vĩnh Yên với 60 vạn dân. Khái niệm chùm đô thị Hà Nội đã được triển khai.
Sau khi bước vào thời kỳ đổi mới, ông Nghiêm cho biết các chuyên gia Liên Xô cùng chuyên gia nước ngoài tiếp tục nghiên cứu quy hoạch chung điều chỉnh. Năm 1976, Hội đồng Chính phủ đã phê duyệt quy hoạch chung Thủ đô đến năm 2000 quy mô dân số là 1,5 triệu dân.
Ngoại thành Hà Nội là vành đai xanh cung cấp thực phẩm, nơi bố trí các hoạt động văn hóa nghỉ ngơi, các công trình đầu mối giao thông và vành đai bảo vệ môi trường, các thành phố vệ tinh xung quanh Hà Nội làm chức năng công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ du lịch, nghỉ mát: Xuân Mai - Sơn Tây - Ba Vì - Vĩnh Yên - Tam Đảo - Bắc Ninh.
Các đồng chí lãnh đạo Trung ương, thành phố Hà Nội xem quy hoạch Thủ đô Hà Nội tại triển lãm “Thành tựu kinh tế, văn hóa, xã hội của Thủ đô 70 năm xây dựng và phát triển” |
Với định hướng như vậy, cuối năm 1978, Chính phủ đã có quyết định mở rộng địa giới Hà Nội lần 2, sáp nhập thêm Ba Vì, Phú Thọ, Thạch Thất, Đan Phượng, Hoài Đức, thị xã Sơn Tây, Hà Đông và 1 số xã của tỉnh Hà Sơn Bình… Thủ đô Hà Nội có diện tích đất tự nhiên là 2.136km2 với dân số 3,5 triệu người.
Tuy nhiên, một năm sau đó, chiến tranh biên giới phía Bắc nổ ra, phát triển đô thị gắn với an ninh quốc phòng được quán triệt trong quy hoạch với phát triển chủ yếu Hà Nội là ở phía nam sông Hồng. Để phù hợp với tình hình trên, quy hoạch chung phải được nghiên cứu điều chỉnh.
Các chuyên gia nước ngoài và Việt Nam đã phối hợp nghiên cứu điều chỉnh tổng mặt bằng quy hoạch Thủ đô tới năm 2000 và được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt vào tháng 4/1981. Theo đồ án quy hoạch này, dân số Thủ đô nội thị là 1,5 triệu người có quy mô đất đai là 100km2, vùng ngoại thị được mở rộng với 11 huyện thị.
Nguyên Giám đốc Sở Quy hoạch - Kiến trúc Hà Nội cho biết, năm 1978, khi mở rộng địa giới hành chính, thành phố kỳ vọng rất nhiều vào khu vực huyện và các thị xã mới. Tuy nhiên, đến năm 1991, Hà Nội đã phải trả 7 huyện thị về Hà Tây, Vĩnh Phúc, bởi vượt quá năng lực quản lý. Sau điều chỉnh này, quy mô diện tích Hà Nội giảm từ 2.136km2 xuống còn 924km2.
Với lần điều chỉnh ranh giới lần 3, tổng mặt bằng quy hoạch Hà Nội đã được nghiên cứu lại. Lúc đó, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng đã có quyết định số 132 ngày 18/4/1992, phê duyệt quy hoạch điều chỉnh Thủ đô đến năm 2010, chủ yếu phát triển về phía nam sông Hồng với chỉ tiêu đất đô thị bình quân là 43,7m2/người lên 54m2/người.
Trong quá trình thực hiện quy hoạch chung năm 1992, Hà Nội lại nhận thấy nhiều điểm không còn phù hợp và đòi hỏi phải có nghiên cứu mới. Đến tháng 6/1998, quy hoạch mới Thủ đô đã được Chính phủ phê duyệt với định hướng phát triển nội thành cả hai bên sông Hồng với quy mô dân số nội thành đến năm 2020 dự báo khoảng 2,5 triệu người.
Ông Nghiêm cho hay, quá trình thực hiện quy hoạch đã tạo lập được diện mạo mới cho Thủ đô với gần 200 khu đô thị mới như Mỹ Đình, Ciputra, Linh Đàm, Đặng Xá được xây dựng đáp ứng nhu cầu đa dạng về nhà ở và có chất lượng ở cao. Các khu công nghiệp, nhất là các công trình kiến trúc mới, quy mô lớn được xây dựng như Trung tâm hội nghị quốc gia, sân vận động Mỹ Đình, các trung tâm thương mại…
Xuyên suốt 10 năm thực hiện quy hoạch chung năm 1998, thành phố nhận thấy những tồn tại trong phát triển đô thị và để tạo điều kiện Hà Nội xứng tầm là Thủ đô của cả nước, đã đến lúc phải mở rộng địa giới.
Sự kiện được nhiều người quan tâm nhất vào tháng 8/2008, khi toàn bộ dân số và diện tích của tỉnh Hà Tây (cũ), huyện Mê Linh - Vĩnh Phúc và 4 xã của huyện Lương Sơn, Hòa Bình được sáp nhập vào Hà Nội. Lúc này, Thủ đô có tổng diện tích tăng gấp 3,6 lần, từ 924km2 lên 3.344km2 (là đô thị có quy mô lớn nhất cả nước, dân số 6,4 triệu người), trở thành 1 trong 17 thành phố có diện tích lớn nhất thế giới.
Theo ông Nghiêm, việc lựa chọn mở rộng không gian, mở rộng địa giới Hà Nội trước hết là yêu cầu khách quan song cũng là ý chí, là nguyện vọng mong muốn của người dân Hà Nội và định hướng của các cấp lãnh đạo Đảng, chính quyền để Hà Nội tiếp tục phát triển bền vững, thuận lợi trong hội nhập với khu vực thế giới.
Sau mở rộng địa giới, đến ngày 26/7/2011, Thủ tướng duyệt quy hoạch chung xây dựng Thủ đô đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Quy hoạch đã tạo ra mô hình chùm đô thị bao gồm: Đô thị trung tâm, 5 đô thị vệ tinh, 3 đô thị sinh thái, 10 thị trấn… Để tạo điều kiện cho Thủ đô phát triển, Quốc hội đã thông qua Luật Thủ đô năm 2012, trong đó về quản lý xây dựng và quản lý quy hoạch đã có những chính sách đặc thù.
Qua 7 lần điều chỉnh có thể thấy các đồ án, quy hoạch của Hà Nội luôn gắn với định hướng phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội. Các đồ án chú trọng đến vấn đề tạo lập không gian để nâng cao chất lượng đời sống của người dân; gắn với mục tiêu phát triển không gian cho các khu công nghiệp, làng nghề… Qua các lần quy hoạch, cơ sở hạ tầng kỹ thuật Thủ đô có nhiều bước phát triển mới, trong đó đáng chú ý nhất là hạ tầng giao thông vận tải.
Nhìn lại lịch sử quy hoạch Thủ đô, ông Đào Ngọc Nghiêm đánh giá qua 4 lần điều chỉnh địa giới và 7 lần quy hoạch, Hà Nội đã đạt được nhiều kết quả cả trong quy hoạch và phát triển đô thị song cũng đang đứng trước nhiều thách thức.
Điển hình như việc giải quyết các khu tập thể cũ, chung cư cũ, dù đã có lộ trình nhưng đến nay vẫn còn gian nan. Trong những năm 1960, việc quy hoạch những khu tập thể là một thành tựu nhưng về sau lại trở thành hệ quả mà Hà Nội đang phải cải tạo, di dời.
Với 7 lần xây dựng, điều chỉnh quy hoạch chung Thủ đô và 4 lần mở rộng địa giới hành chính vào các năm 1960, 1978, 1991 và 2008, thành phố Hà Nội đã có những bước tiến mạnh mẽ, đạt được nhiều thành tựu nổi bật, hướng đến xây dựng Hà Nội là Thủ đô “Xanh - Văn hiến - Thông minh - Hiện đại” như tinh thần của Nghị quyết 15-NQ/TW ngày 5/5/2022 của Bộ Chính trị đã xác định, coi đây là nhiệm vụ chính trị quan trọng đặc biệt trong chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc với tinh thần "Cả nước vì Hà Nội, Hà Nội vì cả nước". Với các quyết định đó, chúng ta hiểu rằng Bộ Chính trị và Quốc hội đang kỳ vọng rất nhiều về vai trò, vị thế của Thủ đô để phù hợp với yêu cầu và khát vọng phát triển của dân tộc với tương lai của Thủ đô 100 triệu dân.
Nghị quyết 06-NQ/TW về quy hoạch, xây dựng, quản lý và phát triển bền vững đô thị Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 được Bộ Chính trị ban hành ngày 24/1/2022 - một Nghị quyết chuyên đề đầu tiên của Đảng về phát triển đô thị, cũng đã nêu một nhiệm vụ rất quan trọng đó là hoàn thiện thể chế trong công tác quy hoạch đô thị, nâng cao chất lượng công tác quy hoạch đô thị.
Đây cũng là cơ sở pháp lý để tháng 6/2024, Quốc hội đã bấm nút thông qua Luật Thủ đô. Trong Luật Thủ đô sửa đổi lần này, đã có nhiều quy định mới, mang tính đột phá. Theo đó, Luật Thủ đô quy định tập trung nguồn lực, ưu tiên tổ chức thực hiện quy hoạch phân khu sông Hồng và sông Đuống phù hợp với Quy hoạch Thủ đô và Quy hoạch chung Thủ đô. Thành phố Hà Nội được xây dựng trung tâm công nghiệp văn hóa tại bãi sông, bãi nổi sông Hồng và khu vực khác có lợi thế về vị trí không gian văn hóa phù hợp với quy hoạch. Luật cũng cho phép áp dụng mô hình TOD, bảo đảm hiện đại, đồng bộ, bền vững...
KTS Trần Ngọc Chính, Chủ tịch Hội Quy hoạch phát triển đô thị Việt Nam, nguyên Thứ trưởng Bộ Xây dựng nhận định, sau 13 năm thực hiện Quy hoạch chung xây dựng Thủ đô Hà Nội đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2050 được phê duyệt năm 2011, cho thấy Đồ án quy hoạch chưa phát huy được vai trò, vị thế, tiềm năng và thế mạnh của Thủ đô Hà Nội trong Vùng Thủ đô; quy mô dân số đã vượt ngưỡng dự báo; tỷ lệ đô thị hóa đạt thấp, chất lượng phát triển đô thị chưa đồng đều dẫn đến những khó khăn trong việc phân bố, điều tiết, quản lý và kiểm soát dân cư; tiến độ triển khai các đô thị vệ tinh theo quy hoạch còn chậm; kết cấu hạ tầng đô thị chưa theo kịp nhu cầu phát triển đô thị, tính đồng bộ chưa cao. Việc tạo lập khu vực "hành lang xanh" với tỷ lệ 70% quỹ đất toàn thành phố đã tạo nên những giới hạn của sự phát triển đô thị...
Do đó, việc nghiên cứu, điều chỉnh tổng thể Quy hoạch chung xây dựng Thủ đô để phù hợp với tình hình thực tiễn của Thủ đô và định hướng phát triển kinh tế-xã hội của trước mắt và lâu dài là rất cần thiết. Vì vậy, ngày 16/6/2023 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 700/QĐ-TTg Phê duyệt nhiệm vụ Điều chỉnh quy hoạch chung Thủ đô Hà Nội đến năm 2045, tầm nhìn đến năm 2065.
Bên cạnh đó, theo quy định của Luật Quy hoạch 2017, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Nhiệm vụ lập Quy hoạch Thủ đô Hà Nội thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 (Quyết định 313/QĐ-TTg ngày 7/3/2022). Đến nay cả hai đồ án đang được tiếp thu, bổ sung, hoàn thiện để trình các cấp có thẩm quyền phê duyệt. Kết luận số 80-KL/TW ngày 24/5/2024 về Quy hoạch Thủ đô Hà Nội thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 và Đồ án Điều chỉnh Quy hoạch chung Thủ đô Hà Nội đến năm 2045, tầm nhìn đến năm 2065 cũng đã nhấn mạnh: “Tiếp tục rà soát, xác định rõ chức năng, vị trí, vai trò của Thăng Long - Hà Nội trong suốt hơn 1.000 năm lịch sử và các tiềm năng, lợi thế, đặc thù riêng của Hà Nội để khai thác, phát huy tối đa cho phát triển Thủ đô”, một lần nữa, mục tiêu hướng Hà Nội trở thành Thủ đô “Văn hiến - Văn minh - Hiện đại” lại được đặt ra.
Để đạt được mục tiêu trên ở cả hai quy hoạch, đúng với tầm nhìn là Thủ đô của đất nước hơn 100 triệu dân, Hà Nội đang đứng trước nhiều cơ hội và thách thức, đòi hỏi quy hoạch phải có tầm nhìn và tư duy đổi mới, xây dựng Hà Nội đột phá hơn và có thể chế quản lý tốt hơn.
Đồ án điều chỉnh tổng thể Quy hoạch chung xây dựng Thủ đô Hà Nội đến năm 2045, tầm nhìn đến năm 2065 và Quy hoạch Thủ đô Hà Nội thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, đều đặt ra mục tiêu phát triển Thủ đô Hà Nội trở thành đô thị hiện đại, thông minh, dẫn dắt và tạo hiệu ứng lan tỏa cho cả vùng đồng bằng sông Hồng và vùng kinh tế trọng điểm phía bắc; có mức sống và chất lượng cuộc sống cao; kinh tế, văn hóa, xã hội phát triển toàn diện, đặc sắc và hài hòa. Mô hình phát triển không gian theo chùm đô thị, trong đó có các đô thị vệ tinh được giữ nguyên nhưng tập trung định hướng phát triển 2 thành phố ở phía bắc sông Hồng (Mê Linh, Sóc Sơn, Đông Anh) và thành phố phía tây Hà Nội (Hòa Lạc - Xuân Mai) trực thuộc Thủ đô làm động lực phát triển khu vực phía bắc và phía tây, vừa là những cực tăng trưởng mới, vừa giúp kéo giãn mật độ dân cư khu vực nội đô; đồng thời xác định 5 trục phát triển, trong đó sông Hồng là trục xanh, cảnh quan trung tâm...
Từ thực trạng phát triển đô thị Thủ đô hiện nay, đối chiếu với những đặc trưng về phát triển đô thị “Văn hiến-Văn minh-Hiện đại”, KTS Trần Ngọc Chính nhận định rằng, Hà Nội vẫn đang gặp nhiều khó khăn về thể chế, hạ tầng, môi trường và các yếu tố về không gian, hạn chế trong quy hoạch, năng lực và công tác quản lý.
Các đô thị vệ tinh Hòa Lạc, Sóc Sơn, Phú Xuyên, Xuân Mai và Sơn Tây hay Khu Công nghệ cao Hòa Lạc… trong quá trình triển khai thực hiện cũng đang gặp rất nhiều khó khăn do chậm tiến độ xây dựng các dự án trọng điểm, sự phát triển thiếu tương xứng của hạ tầng giao thông. Mô hình phát triển chùm đô thị chưa đạt yêu cầu, chưa gắn kết phát triển nông thôn mới với đô thị hóa... thiếu cơ chế chính sách, tạo thuận lợi, thu hút doanh nghiệp cho sự phát triển này.
KTS Trần Ngọc Chính nhận định, hiện tại, trong Quy hoạch Thủ đô, tầm nhìn được xác định đến năm 2050, còn trong Điều chỉnh Quy hoạch chung Thủ đô tầm nhìn xác định đến năm đến năm 2065. Điều này dễ dẫn đến mục tiêu và vấn đề liên kết giữa hai quy hoạch trong quá trình phát triển của Thủ đô sẽ có nhiều bất cập. Quy hoạch Thủ đô là cơ sở để cung cấp số liệu cho Điều chỉnh Quy hoạch chung Thủ đô, dẫn đến ở hai quy hoạch sẽ không có sự trùng khớp ở các giai đoạn phát triển, trong khi nội dung dự báo về dân số và lao động (cho từng thời kỳ) là yếu tố quan trọng trong công tác quy hoạch vì nó quyết định việc sử dụng đất ở, đất hạ tầng, cây xanh công viên mặt nước.
Vì vậy, KTS Trần Ngọc Chính cho rằng cần phân tích kỹ các kịch bản để điều chỉnh phân bố dân số. Trong đó, tiếp tục giảm dân số trong nội đô lịch sử, thúc đẩy hình thành, tạo nơi đến có chất lượng ở các đô thị phát triển, đô thị vệ tinh. Tăng cường kiểm soát phát triển không gian đô thị và nông thôn, xây dựng hình thái quy hoạch kiến trúc đặc trưng cho Thủ đô Hà Nội tại khu vực đô thị, nông thôn cũng như phải kiểm soát chặt chẽ quy hoạch về chiều cao công trình, mật độ xây dựng của từng khu vực, đặc biệt là khu vực nội đô. Việc lựa chọn các chỉ tiêu sử dụng đất, sử dụng không gian, hạ tầng kỹ thuật và yêu cầu phát triển trong khu vực chức năng đặc thù cần được làm rõ trong lần điều chỉnh này.
Đối với 5 đô thị vệ tinh, cần rà soát lại mô hình và lộ trình phát triển để có kế hoạch tập trung nguồn lực đầu tư theo thứ tự ưu tiên; cần kế thừa mô hình phát triển đô thị đã được xác định tại đồ án Quy hoạch chung xây dựng Thủ đô được phê duyệt. Quy hoạch cần tiếp cận mô hình thành phố trong thành phố với điều kiện đặc thù về mô hình quản trị, thể chế để trở thành khu vực động lực phát triển Thủ đô. Nghiên cứu đô thị vệ tinh Phú Xuyên kết hợp sân bay phía Nam, để có thể trở thành thành phố phía Nam.
Với việc xác định Hà Nội không chỉ là hạt nhân của đồng bằng Sông Hồng mà còn là trung tâm Vùng Thủ đô; là trung tâm chính trị-hành chính Quốc gia và là trung tâm văn hóa, lịch sử, phát triển khoa học công nghệ, vì vậy, trong cả hai Quy hoạch cần phải làm rõ hơn về lợi thế này với sự liên kết vùng và giao thông Quốc gia, liên kết với biển - kinh tế biển với các cửa khẩu Quốc tế và sân bay Quốc tế trong vùng. Phải làm nổi bật tam giác phát triển kinh tế biển Hà Nội-Hải phòng-Quảng Ninh và nền văn hóa nổi tiếng của kinh thành Thăng Long và đồng bằng Sông Hồng.
Mặt khác, vị trị địa lý của Hà Nội rất thuận lợi cho phát triển không gian kinh tế và cảnh quan đô thị, đặc biệt là sông Hồng, theo hướng sông Hồng là trục xanh, cảnh quan trung tâm, phát triển đô thị hài hòa hai bên sông của Hà Nội, để sông Hồng thật sự trở thành một trục cảnh quan thiên nhiên, dòng chảy lịch sử tạo nên dấu ấn của nền văn hóa Thăng Long và góp phần làm nên một Hà Nội văn hiến, khi kết hợp trục sông Hồng với trục Ba Vì-Hồ Tây thành trục văn hóa sẽ làm nên một Hà Nội riêng khác, đặc trưng. Xây dựng mô hình thành phố trực thuộc Thủ đô tại khu vực phía bắc (vùng Đông Anh, Mê Linh, Sóc Sơn) và phía tây (vùng Hoà Lạc, Xuân Mai).
Theo KTS Trần Ngọc Chính, việc Quy hoạch phân khu đô thị sông Hồng được phê duyệt sẽ góp phần đẩy nhanh quá trình điều chỉnh chung xây dựng Thủ đô nhằm sớm đưa Thủ đô phát triển đồng bộ, văn minh, hiện đại, bền vững; nhất là trong bối cảnh nhiều quận trung tâm không còn quỹ đất để phát triển nhằm phục vụ an sinh xã hội. Vì vậy, cần có các giải pháp đột phá và hiệu quả để sớm có dự án về phát triển không gian nhất là khai thác đất bãi, bãi giữa sông Hồng vào mục đích cho dịch vụ du lịch, công viên giải trí của người dân, để sông Hồng phải trở thành kỳ tích sông Hồng Hà Nội, cùng với hệ thống sông Đuống sông Nhuệ, sông Đáy, sông Tích và sông Cà Lồ... Đây là hệ thống mặt nước, cây xanh, cảnh quan đóng vai trò quan trọng phát triển Thủ đô xanh và bền vững.
Bên cạnh đó, cần thúc đẩy phát triển hệ thống đường sắt đô thị (metro) và đường sắt nội vùng (kết nối với các đô thị trong vùng), kết nối với giao thông công cộng tạo nên hệ thống giao thông công cộng TOD kết nối về thương mại, dịch vụ vừa tiết kiệm đất vừa tạo được không gian điểm nhấn đô thị và phục vụ tốt nhất cho người dân...; chú trọng quy hoạch phát triển không gian ngầm đô thị, xác định rõ vùng cấm, vùng hạn chế xây dựng các công trình ngầm.
Các giải pháp quy hoạch hệ thống hạ tầng kỹ thuật xanh và thông minh cần phù hợp với định hướng phát triển trong các quy hoạch ngành quốc gia đã xác định cho từng giai đoạn để đảm bảo kết nối hạ tầng vùng, phát triển giao thông công cộng thông minh cũng như phát triển hạ tầng kỹ thuật khác.
Về hệ thống nông thôn phát triển theo chương trình nông thôn mới và định hướng quy hoạch chung, cần gắn kết hài hòa giữa đô thị và nông thôn, giữa bảo tồn và phát huy giá trị di sản, văn hóa truyền thống; hình thành các cụm công nghiệp văn hóa gắn với phát triển làng nghề truyền thống, phát triển kinh tế, phục vụ du lịch, phát triển nông nghiệp sinh thái, công nghệ cao, nông nghiệp đô thị gắn với chuỗi dịch vụ phục vụ đô thị...
Đặc biệt, KTS Trần Ngọc Chính cho rằng, cần phải hoàn thiện về cơ chế chính sách và hệ thống văn bản quy phạm pháp luật. Đây chính là công cụ để thực hiện việc quản lý xây dựng phát triển đô thị theo hướng văn minh hiện đại - quản lý xây dựng phát triển đô thị theo quy hoạch. Thực tế đã cho thấy trong công tác xây dựng và quản lý đô thị, nếu có quy hoạch tốt nhưng xây dựng và quản lý đô thị không tốt thì quy hoạch không thể đi vào cuộc sống, không thể trở thành hiện thực. Vì thế, chúng ta cần xây dựng mô hình tổ chức chính quyền đô thị phù hợp đặc điểm tình hình của Thủ đô Hà Nội, tăng cường cải cách hành chính, số hóa hành chính, từng bước chuyển dịch vụ công và phân quyền cho các đô thị trực thuộc nhằm thúc đẩy công tác quản lý đô thị và thu hút đầu tư.
Việc nghiên cứu đề xuất các giải pháp đột phá trong Quy hoạch Thủ đô và Điều chỉnh Quy hoạch chung Thủ đô, nhằm cụ thể hóa các mục tiêu phát triển Thủ đô Hà Nội theo mô hình đô thị thông minh, thành phố sáng tạo, phát triển xanh, thích ứng với biến đổi khí hậu. Khi đó, đồ án quy hoạch sẽ trở thành công cụ pháp lý quan trọng để quản lý quy hoạch xây dựng, quản lý đầu tư xây dựng và hoạch định chính sách, kiến tạo động lực phát triển trên địa bàn thành phố Hà Nội, đáp ứng yêu cầu phát triển của thành phố, vùng và quốc gia.
(Còn nữa)
Thực hiện: Trí Nhân - Nguyễn Anh |
|