eMag azine
12/05/2025 08:00
Bài 2: Bản tuyên ngôn soi đường

12/05/2025 08:00

TTTĐ - Theo đánh giá của các chuyên gia, Nghị quyết 68-NQ/TW của Bộ Chính trị là một văn kiện có ý nghĩa chiến lược, bản tuyên ngôn soi đường, dẫn lối để kinh tế tư nhân khẳng định mình và phát triển thịnh vượng trong thời đại mới...

tuyên ngôn

Bài 2: Bản tuyên ngôn soi đường

Theo đánh giá của các chuyên gia, Nghị quyết 68-NQ/TW của Bộ Chính trị là một văn kiện có ý nghĩa chiến lược, bản tuyên ngôn soi đường, dẫn lối để kinh tế tư nhân khẳng định mình và phát triển thịnh vượng trong thời đại mới...

Nghị quyết số 68-NQ/TW của Bộ Chính trị được đánh giá một văn kiện có ý nghĩa chiến lược, đánh dấu bước ngoặt lớn trong tư duy phát triển nền kinh tế Việt Nam – nơi khu vực kinh tế tư nhân được khẳng định là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc dân.

Không chỉ là sự ghi nhận về mặt tư tưởng, Nghị quyết 68-NQ/TW phản ánh một tầm nhìn cải cách sâu rộng, đổi mới thực chất, đặt doanh nghiệp tư nhân vào trung tâm của công cuộc phát triển kinh tế - xã hội, đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất lao động, khơi thông nguồn lực và giải phóng sức dân.

Để làm rõ hơn tầm quan trọng của Nghị quyết 68-NQ/TW phóng viên Báo Tuổi trẻ Thủ đô đã có cuộc trao đổi với chuyên gia kinh tế Nguyễn Quang Huy, CEO Khoa Tài chính - Ngân hàng, Trường Đại học Nguyễn Trãi (NTU).

Bài 2: Bản tuyên ngôn soi đường

Theo ông Nguyễn Quang Huy, lần đầu tiên, Bộ Chính trị khẳng định việc phát triển kinh tế tư nhân là một nhiệm vụ trung tâm, cấp bách, nhưng đồng thời là chiến lược lâu dài, phải được cụ thể hóa trong toàn bộ hệ thống chính sách quốc gia. Quan điểm này cho thấy sự chuyển dịch rõ rệt: từ mô hình “quản lý – xin cho” sang “kiến tạo – đồng hành”.

Đặc biệt, Nghị quyết nhấn mạnh phải xóa bỏ triệt để các định kiến, thái độ kỳ thị hay phân biệt đối xử đối với kinh tế tư nhân. Thay vào đó, cần tôn vinh tinh thần kinh doanh chân chính, khuyến khích sáng tạo, phát triển và phụng sự đất nước, coi doanh nhân là những chiến sĩ tiên phong trên mặt trận kinh tế.

Nghị quyết 68-NQ/TW nêu rõ, doanh nghiệp là chủ thể, Nhà nước là kiến tạo, đồng hành và bảo vệ. Tinh thần này được cụ thể hóa qua hàng loạt định hướng cải cách có tính nền tảng.

Cụ thể là việc bảo vệ quyền tài sản, quyền tự do kinh doanh và quyền cạnh tranh bình đẳng; chấm dứt tình trạng thanh tra, kiểm tra trùng lặp, kéo dài – chỉ thanh tra 1 lần/năm trừ khi có dấu hiệu vi phạm rõ ràng; thực hiện số hóa toàn diện đất đai, cải cách thủ tục hành chính, minh bạch hóa dữ liệu; đẩy mạnh chuyển đổi số trong hoạt động công và dịch vụ công, tạo môi trường minh bạch, cạnh tranh lành mạnh.

Bài 2: Bản tuyên ngôn soi đường

Nghị quyết 68-NQ/TW cũng đưa ra thông điệp đặc biệt mạnh mẽ về việc nâng đỡ các doanh nghiệp nhỏ và vừa, khởi nghiệp sáng tạo, doanh nghiệp công nghệ cao – nhóm có khả năng tạo đột phá, ứng phó linh hoạt với biến động kinh tế toàn cầu.

Theo đó, Nghị quyết 68-NQ/TW nêu rõ việc cho phép các địa phương sử dụng ngân sách để phát triển hạ tầng khu công nghiệp, cụm công nghiệp, vườn ươm công nghệ; dành tối thiểu 20 ha/khu hoặc 5% diện tích hạ tầng cho doanh nghiệp đổi mới sáng tạo, công nghệ cao; giảm ít nhất 30% tiền thuê đất trong 5 năm đầu, hỗ trợ mặt bằng sạch, điện – nước – thông tin, giao thông; kết nối doanh nghiệp nhỏ với chuỗi cung ứng, thị trường và hệ sinh thái đổi mới sáng tạo.

Nghị quyết 68-NQ/TW cũng nhấn mạnh phát triển doanh nhân không chỉ là phát triển kinh tế, mà còn là phát triển quốc gia. Doanh nhân Việt Nam cần được đào tạo, bồi dưỡng toàn diện về đạo đức nghề nghiệp, văn hóa kinh doanh; tư duy toàn cầu, trí tuệ chuyển đổi số, bản lĩnh thị trường; ý chí vươn lên, tinh thần yêu nước và trách nhiệm xã hội.

Theo ông Nguyễn Quang Huy, Nhà nước cần có chính sách tôn vinh, bảo vệ, đồng hành và tiếp sức cho doanh nhân, để họ có thể vững vàng vượt qua biến động, đóng góp cho sự nghiệp phát triển bền vững.

Vị chuyên gia cũng cho rằng, để Nghị quyết 68-NQ/TW đi vào thực tiễn, cần đồng bộ triển khai thể chế hóa nhanh chóng các nội dung Nghị quyết bằng luật, nghị định, chương trình hành động cụ thể; thiết lập cơ chế giám sát độc lập việc thực thi các chính sách liên quan đến hỗ trợ doanh nghiệp tư nhân.

Cùng với đó là rà soát, bãi bỏ các quy định rào cản, không phù hợp với môi trường kinh doanh thị trường; thúc đẩy sự phối hợp giữa các bộ ngành – địa phương – hiệp hội doanh nghiệp để tạo sự đồng thuận trong thực thi chính sách; xây dựng hệ thống chỉ số đánh giá hiệu quả thực hiện Nghị quyết, làm cơ sở điều chỉnh kịp thời chính sách.

Với Nghị quyết 68-NQ/TW, kinh tế tư nhân sẽ không còn chịu lép vế trước khối doanh nghiệp Nhà nước
Với Nghị quyết 68-NQ/TW, kinh tế tư nhân sẽ không còn chịu lép vế trước khối doanh nghiệp Nhà nước.

"Nghị quyết 68-NQ/TW không chỉ là một chính sách; nó là lời hiệu triệu, là bản tuyên ngôn soi đường trong thời đại mới, là bản thiết kế lớn cho một Việt Nam thịnh vượng hơn, độc lập hơn, hội nhập sâu sắc hơn – nơi mà doanh nghiệp tư nhân là trung tâm của động lực tăng trưởng, là nguồn lực quốc gia, là niềm tự hào của thời đại kinh tế mới", ông Huy chia sẻ.

Cũng theo ông Huy, việc hiện thực hóa tinh thần Nghị quyết 68-NQ/TW đòi hỏi sự đồng lòng giữa Nhà nước, cộng đồng doanh nghiệp và toàn xã hội, để từ đó kiến tạo một hệ sinh thái phát triển minh bạch, công bằng, sáng tạo và đầy khát vọng vươn lên.

Bài 2: Bản tuyên ngôn soi đường

Còn theo đại biểu Trần Hoàng Ngân, đại biểu Quốc hội đoàn TP HCM, việc Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 68-NQ/TW là một bước đột phá trong phát triển khu vực kinh tế tư nhân.

Nghị quyết định hướng đến năm 2030, kinh tế tư nhân sẽ là động lực quan trọng nhất, nhấn mạnh về vai trò dẫn dắt của khu vực kinh tế tư nhân. Do vậy, Việt Nam cần có các tập đoàn kinh tế tư nhân lớn, có thể sánh vai, cạnh tranh với các tập đoàn kinh tế khác trên thế giới.

Cũng chính vì thế, chúng ta cần phải có cơ chế, thể chế để luật hoá chủ trương của Đảng, Nhà nước nhằm giúp khu vực kinh tế tư nhân đầu tư mạnh vào lĩnh vực khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo.

Điều này cũng đặt ra yêu cầu đối với dự án Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo lần này phải phản ánh được, thể chế hoá được những tư duy của Đảng vào trong luật. Từ đó, khu vực kinh tế tư nhân mới có điều kiện đầu tư nhiều hơn cho các hoạt động khoa học và mới có thể phát triển nhanh, trở thành các tập đoàn kinh tế lớn ngang tầm các tập đoàn kinh tế trên thế giới.

Đại biểu Trần Hoàng Ngân nhấn mạnh, chúng ta cần sớm thể chế hoá Nghị quyết số 68-NQ/TW, tạo điều kiện cho khu vực kinh tế tư nhân tiếp cận mọi nguồn lực của quốc gia một cách thuận lợi nhất với nhiều ưu đãi nhất.

Có như vậy, khu vực kinh tế tư nhân mới có hiện thực hoá được Nghị quyết số 68-NQ/TW, biến khu vực kinh tế tư nhân trở thành động lực quan trọng nhất trong phát triển kinh tế của đất nước vào năm 2030.

Ông Nguyễn Văn Tưởng, Chủ tịch Công ty Trầm hương Khánh Hòa ATC
Ông Nguyễn Văn Tưởng, Chủ tịch Công ty Trầm hương Khánh Hòa ATC

Cũng theo ông Ngân, Nghị quyết số 68-NQ/TW lần này của Bộ Chính trị đã thể hiện 3 tư tưởng rất lớn. Đó là giảm sự phiền hà; tăng cường mức độ bảo vệ đối với khu vực kinh tế tư nhân và khơi thông mọi nguồn lực. Đây là điểm rất mới vì trước đây chúng ta đã nhấn mạnh về việc giảm sự phiền hà nhưng lần này chúng ta còn nhấn mạnh thêm việc tăng cường mức độ bảo vệ khu vực kinh tế tư nhân. Đồng thời, khơi thông mọi nguồn lực để khu vực kinh tế tư nhân thực sự là lực lượng quan trọng nhất trong việc đóng góp vào mục tiêu xây dựng đất nước đến năm 2030, năm 2045 mà chúng ta đã đề ra.

Một điểm đột phá trong các đột phá của Nghị quyết số 68-NQ/TW là việc khẳng định rõ cần xóa bỏ triệt để những định kiến về kinh tế tư nhân. Đây là lần đầu tiên một văn kiện cấp cao của Đảng đề cập trực diện đến “tư tưởng, quan niệm, thái độ định kiến” vốn là lực cản lớn nhất đối với sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân trong suốt nhiều thập niên.

Bên cạnh đó, Nghị quyết số 68-NQ/TW cũng nhấn mạnh vai trò lãnh đạo của Đảng, vai trò kiến tạo của Nhà nước và coi doanh nghiệp là trung tâm, là chủ thể của tiến trình phát triển. Đội ngũ doanh nhân không chỉ cần giỏi làm kinh tế mà còn phải có đạo đức, văn hóa, khát vọng cống hiến, tinh thần dân tộc và ý thức trách nhiệm xã hội. Đây là cách tiếp cận toàn diện và nhân văn, đặt doanh nhân không chỉ trong vai trò sản xuất mà còn là lực lượng chủ lực đóng góp vào sự phát triển bền vững, bao trùm và mang bản sắc Việt Nam.

Có thể nói rằng, Nghị quyết số 68-NQ/TW là một dấu mốc quan trọng, không chỉ nâng tầm vai trò của kinh tế tư nhân, mà còn cho thấy quyết tâm đổi mới mạnh mẽ tư duy phát triển của Đảng, mở ra một thời kỳ mới, nơi doanh nghiệp và doanh nhân tư nhân được khuyến khích, bảo vệ và đồng hành cùng sự nghiệp phát triển đất nước.

Đây chính cũng là chìa khóa để kích hoạt toàn bộ sức sản xuất trong xã hội, khai thác hiệu quả nguồn lực trong dân, đồng thời bảo đảm tính chủ động, độc lập và sức cạnh tranh của nền kinh tế quốc dân trong thời đại mới.

Ở góc độ doanh nghiệp, ông Nguyễn Văn Tưởng, Chủ tịch Công ty Trầm hương Khánh Hòa ATC chia sẻ, khi Nghị quyết số 68-NQ/TW được ban hành, cộng động doanh nghiệp có cảm giác vỡ òa khi được chứng kiến một sự thừa nhận chính danh dành cho những người chiến sĩ trên mặt trận kinh tế, vốn đã âm thầm cống hiến, kiên cường bám trụ và bền bỉ vượt qua biết bao định kiến suốt nhiều năm qua.

"Tôi khởi nghiệp từ thập niên 1990, thời mà tư duy "công dân chỉ được làm những gì pháp luật cho phép" vẫn là rào chắn vô hình. Khi bắt đầu kinh doanh trầm hương - lúc đó vẫn nằm trong danh mục hàng quốc cấm - tôi không đơn thuần chỉ mở một lối mưu sinh, mà đang đi ngược chiều gió. Trầm hương là sản vật của núi rừng mang giá trị kinh tế và văn hóa cao, lẽ ra phải được phát triển, không phải bị cấm đoán.

Tôi đã kiên trì vượt qua muôn vàn thủ tục, định kiến và sợ hãi để rồi, sau nhiều nỗ lực, trầm hương không còn là hàng quốc cấm. Nhưng nỗi ám ảnh "không quản được thì cấm", hay "hình sự hóa các quan hệ kinh tế", cùng cơ chế "xin - cho"... vẫn như bóng ma lởn vởn, khiến không ít doanh nhân co mình lại, không dám nghĩ khác, làm khác", ông Tưởng chia sẻ.

Ông Tưởng tin rằng, Nghị quyết số 68-NQ/TW với cam kết xây dựng Nhà nước kiến tạo, lấy doanh nghiệp làm trung tâm, phát triển kinh tế tư nhân như một chiến lược lâu dài chứ không phải biện pháp tình thế, sẽ truyền cảm hứng mạnh mẽ.

"Doanh nhân hôm nay sẽ không còn phải "sống trong sợ hãi" như thế hệ chúng tôi từng trải qua. Họ được tiếp thêm niềm tin để khởi nghiệp, đổi mới và sáng tạo, đúng với tinh thần mà doanh nhân luôn mang trong mình", ông Tưởng chia sẻ thêm.

Cũng theo ông này, Nghị quyết số 68-NQ/TW không chỉ là một cú hích ở tầm chiến lược, mà còn là nguồn cảm hứng mạnh mẽ để doanh nhân dấn thân, tìm con đường riêng, tạo dựng những giá trị mới. Khi được "giải phóng" khỏi những nỗi e dè và rào cản vô hình, khu vực kinh tế tư nhân sẽ vươn lên với những sản phẩm, dịch vụ mang đẳng cấp cao và đậm đà bản sắc Việt Nam.

Ông Nguyễn Văn Tưởng cũng cho rằng, Nghị quyết số 68-NQ/TW đã chỉ ra một trong những điểm then chốt đó là cần tạo thuận lợi để khu vực kinh tế tư nhân tiếp cận được các nguồn lực thiết yếu như đất đai, vốn và nhân lực chất lượng cao. Đây không chỉ là một khẳng định đúng mà còn rất trúng, bởi đó chính là nút thắt hàng đầu kìm hãm sự phát triển của doanh nghiệp tư nhân lâu nay.

Nghị quyết số 68-NQ/TW sẽ là cú hích lớn thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển; đồng thời việc xóa bỏ các rào cản các yêu tố tâm lý lo sợ bị hình sự hóa các vấn đề kinh tế sẽ giúp doanh nghiệp mạnh dạn hơn trong đầu tư, kinh doanh
Nghị quyết số 68-NQ/TW sẽ là cú hích lớn thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển; đồng thời việc xóa bỏ các rào cản các yêu tố tâm lý lo sợ bị hình sự hóa các vấn đề kinh tế sẽ giúp doanh nghiệp mạnh dạn hơn trong đầu tư, kinh doanh.

Với kinh nghiệm trong thương trường hơn 3 thập kỷ, ông Tưởng cho biết, rất nhiều doanh nghiệp tư nhân khó vay vốn ngân hàng vì không có đất thế chấp. Nhưng muốn có đất thì phải có dự án, mà để có dự án, doanh nhân phải vượt qua cả một "núi" thủ tục. Nhiều người nản lòng, bỏ cuộc.

"Cái vòng luẩn quẩn "có đất mới có vốn - có vốn mới có đất" vẫn kìm hãm phần lớn doanh nghiệp nhỏ và vừa, trong khi một số ít vì lý do nào đó không minh bạch lại dễ dàng tiếp cận các nguồn lực", ông Tưởng chia sẻ.

Ông Tưởng cũng cho rằng, khu vực kinh tế tư nhân đang đóng góp khoảng 50% GDP, hơn 30% tổng thu ngân sách Nhà nước và sử dụng khoảng 82% tổng số lao động, với Nghị quyết số 68-NQ/TW, khu vực này sẽ tiếp tục bứt phá mạnh mẽ.

"Trước đây, nhiều khi chúng ta tự "mua dây buộc mình" với những cơ chế, chính sách không thân thiện với tinh thần kinh doanh. Nay, khi những rào cản ấy được tháo gỡ, khi tư duy kiến tạo thay vì kiểm soát được xác lập, thì đó chính là con đường để kinh tế tư nhân vươn mình mạnh mẽ trong kỷ nguyên mới", ông Tưởng nhìn nhận.

Đặc biệt, Nghị quyết số 68-NQ/TW cũng yêu cầu chấm dứt tình trạng thanh tra, kiểm tra chồng chéo, trùng lắp, kéo dài, không cần thiết; bảo đảm nguyên tắc chỉ thực hiện thanh tra, kiểm tra mỗi năm 1 lần đối với doanh nghiệp, trừ trường hợp có bằng chứng rõ ràng về việc doanh nghiệp vi phạm; xử lý nghiêm các hành vi lạm dụng thanh tra, kiểm tra để nhũng nhiễu, gây khó khăn cho doanh nghiệp.

"Việc Nghị quyết số 68-NQ/TW yêu cầu chỉ thanh tra doanh nghiệp mỗi năm một lần, trừ trường hợp có dấu hiệu vi phạm rõ ràng, chúng tôi vơi bớt nỗi lo bị “gõ cửa” thanh tra quá nhiều. Trước đây, mỗi năm phải tiếp vài đoàn kiểm tra, thanh tra chúng tôi không còn thời gian để sản xuất, kinh doanh nữa", ông Trần Hồng Phúc, Phó Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty Cổ phần Xây dựng Phục Hưng Holdings chia sẻ.

Đồng thời, Nghị quyết số 68-NQ/TW cũng nêu rõ sửa đổi các quy định về pháp luật hình sự, dân sự, tố tụng hình sự, tố tụng dân sự để bảo đảm nguyên tắc khi xử lý các sai phạm, vụ việc về dân sự kinh tế, ưu tiên áp dụng các biện pháp về dân sự, kinh tế, hành chính trước, cho phép các doanh nghiệp, doanh nhân được chủ động khắc phục sai phạm, thiệt hại. Trường hợp thực tiễn áp dụng pháp luật có thể dẫn đến xử lý hình sự hoặc không xử lý hình sự thì kiên quyết không áp dụng xử lý hình sự. Trường hợp đến mức xử lý hình sự thì ưu tiên các biện pháp khắc phục hậu quả kinh tế trước và là căn cứ quan trọng để xem xét các biện pháp xử lý tiếp theo.

Theo ông Trần Hồng Phúc, Nghị quyết số 68-NQ/TW sẽ là cú hích lớn thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển theo đúng định hướng của Đảng và Nhà nước; đồng thời việc xóa bỏ các rào cản các yêu tố tâm lý lo sợ bị hình sự hóa các vấn đề kinh tế sẽ giúp doanh nghiệp mạnh dạn hơn trong đầu tư, kinh doanh.

“Nghị quyết số 68-NQ/TW thể hiện sự đột phá về tư tưởng, tư duy khi lần đầu tiên khu vực kinh tế tư nhân được xác định là một động lực quan trọng nhất cho sự phát triển đất nước. Nếu triển khai đúng hướng, thực thi hiệu quả và thực chất thì phần lớn các điểm nghẽn hiện tại sẽ được tháo gỡ”, ông Phúc chia sẻ.

Cũng theo ông Phúc, Nghị quyết số 68-NQ/TW với tinh thần đổi mới mạnh mẽ đã mở ra không gian mới cho khu vực kinh tế tư nhân. Để chuyển hóa chủ trương thành hiện thực, sẽ cần một quá trình đồng hành và nỗ lực chung, không chỉ từ phía Nhà nước mà còn từ cộng đồng doanh nghiệp, đội ngũ chuyên gia và toàn xã hội.

Bài 2: Bản tuyên ngôn soi đường

Theo ông Đậu Anh Tuấn, Phó Tổng Thư ký Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), Nghị quyết số 68-NQ/TW không chỉ là một thông điệp chính trị mạnh mẽ, mà còn là lời khẳng định rõ ràng về vai trò của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế quốc dân.

"Ngay khi Nghị quyết số 68-NQ/TW được ký ban hành từ tập đoàn lớn đến hộ kinh doanh nhỏ lẻ đều hồ hởi và họ mong đợi điều này từ lâu. Nghị quyết đã khẳng định rõ ràng vị trí của khu vực kinh tế tư nhân, với những chính sách thực chất và mang tính cách mạng", ông Đậu Anh Tuấn chia sẻ.

Ông Đậu Anh Tuấn cho rằng, điểm đột phá đầu tiên của Nghị quyết số 68-NQ/TW chính là việc xóa bỏ những định kiến, nghi kỵ vốn tồn tại lâu nay về vai trò của kinh tế tư nhân. Lần đầu tiên, khu vực này được xác định là động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc dân.

Bài 2: Bản tuyên ngôn soi đường

Bên cạnh đó, Nghị quyết số 68-NQ/TW còn đề ra những chính sách rất cụ thể như miễn thuế trong ba năm đầu, bỏ phí môn bài, tạo điều kiện cho doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ tham gia vào các lĩnh vực vốn là "vùng cấm" chỉ dành cho doanh nghiệp nhà nước như công nghiệp quốc phòng, an ninh và cả tư pháp.

Một trong những chính sách được giới doanh nghiệp đặc biệt đón nhận là việc tách bạch rõ ràng giữa trách nhiệm cá nhân và trách nhiệm pháp nhân trong các sai phạm kinh tế. Đây là bước tiến rất lớn trong cải cách pháp lý.

"Nghị quyết đã xác lập chủ trương ưu tiên áp dụng các biện pháp hành chính, dân sự, kinh tế đối với vi phạm trước khi xem xét đến giải pháp hình sự. Giải pháp hình sự chỉ được áp dụng sau khi các biện pháp khắc phục kinh tế và bồi thường đã không đạt hiệu quả. Điều này giúp giảm thiểu rủi ro pháp lý, tạo môi trường kinh doanh an toàn hơn và phù hợp với thông lệ quốc tế", ông Tuấn nhận định.

Ông Tuấn cho rằng, chính sách này được kỳ vọng sẽ giúp khu vực tư nhân an tâm trong quá trình vận hành, tránh việc hình sự hóa các sai phạm kinh tế không nghiêm trọng. Đây cũng là điểm nhấn quan trọng giúp môi trường kinh doanh của Việt Nam trở nên thân thiện và hấp dẫn hơn đối với nhà đầu tư trong và ngoài nước.

Mặt khác, một trong những rào cản lớn nhất khiến doanh nghiệp tư nhân khó phát triển chính là sự bất bình đẳng trong tiếp cận các nguồn lực. Ông Đậu Anh Tuấn chỉ rõ, doanh nghiệp Nhà nước được cấp vốn, doanh nghiệp FDI được bảo lãnh và có lãi suất thấp, trong khi doanh nghiệp tư nhân trong nước phải tự bơi, tự lo vốn với lãi suất cao.

Để khắc phục tình trạng này, Nghị quyết số 68-NQ/TW đưa ra nhóm giải pháp quan trọng nhằm cải thiện khả năng tiếp cận vốn cho doanh nghiệp tư nhân. Trong đó, đáng chú ý nhất là chủ trương khuyến khích ngân hàng cho vay dựa trên dòng tiền thay vì tài sản thế chấp.

Ông Đậu Anh Tuấn nhận định, đây là một thay đổi mang tính thực chất, bởi hầu hết các doanh nghiệp tư nhân vừa và nhỏ đều thiếu tài sản bảo đảm nhưng lại có khả năng vận hành linh hoạt và dòng tiền ổn định.

Không chỉ có vốn, đất đai cũng là một điểm nghẽn cố hữu. Nghị quyết số 68-NQ/TW yêu cầu các địa phương khi quy hoạch khu, cụm công nghiệp cần dành quỹ đất riêng cho doanh nghiệp tư nhân - điều chưa từng được xác lập rõ ràng trong các chính sách trước đây. Đồng thời, Việt Nam phải hoàn thành cơ sở dữ liệu đất đai quốc gia trong năm 2025 và thực hiện các giao dịch đất đai trên nền tảng trực tuyến.

"Đây không chỉ là cải cách hành chính mà còn là cách tạo sân chơi minh bạch, giảm chi phí tiếp cận tài nguyên", ông Đậu Anh Tuấn đánh giá.

Cũng theo ông Đậu Anh Tuấn, để Nghị quyết số 68-NQ/TW thực sự trở thành động lực phát triển, điều quan trọng nhất vẫn là sự chuyển đổi từ tư duy quản lý sang tư duy hỗ trợ. Khi tư duy quản lý thay đổi, kinh tế tư nhân sẽ thực sự trở thành động lực mạnh mẽ, góp phần xây dựng nền kinh tế quốc dân bền vững và năng động.

Chia sẻ quan điểm của mình ở góc độ là nơi cung cấp vốn cho các doanh nghiệp, ông Từ Tiến Phát, Tổng Giám đốc Ngân hàng Á Châu (ACB) cho biết, ngân hàng của ông hình thành và phát triển trong giai đoạn sau đổi mới, năm 1993. Khi đó, rất nhiều doanh nghiệp tư nhân trong đó có các ngân hàng được hình thành và phát triển.

Hiện nay, ACB đang phục vụ gần 300.000 doanh nghiệp vừa và nhỏ và hơn 800.000 hộ kinh doanh. Có thể nói ngân hàng đang phục vụ rất lớn lượng doanh nghiệp tư nhân nên hiểu rất rõ những trăn trở của doanh nghiệp và hộ kinh doanh trong thời kỳ hiện nay.

Theo ông Phát, thời kỳ hiện nay có nhiều biến động bên trong và bên ngoài, chủ yếu liên quan đến kinh tế toàn cầu, những tranh chấp, những vấn đề thuế quan… Việc ví von "doanh nhân là chiến sĩ trên mặt trận kinh tế" là rất đúng.

Doanh nhân hiện nay đối mặt với nhiều thách thức, từ vấn đề cạnh tranh, thị trường, thuế quan và trách nhiệm của họ là phải giữ được doanh nghiệp của mình.

"Khi Nghị quyết 68 đưa vấn đề kinh tế tư nhân là quan trọng hàng đầu, chúng tôi nhìn nhận vừa là vinh dự nhưng cũng vừa là trách nhiệm. Chúng tôi cũng như các doanh nghiệp tư nhân của Việt Nam đã mong mỏi Nghị quyết này từ rất lâu. Chúng tôi thấy rằng việc triển khai Nghị quyết này đang được triển khai gấp rút", ông Phát nói.

Cũng theo ông Phát, ACB là doanh nghiệp thiên về tài chính nên nhìn nhận rõ trách nhiệm của mình. Ngân hàng nhìn nhận thể chế giống như trận địa, các doanh nghiệp là những người ở tuyến trước, còn chúng tôi là doanh nghiệp tài chính thì như hậu phương về tài chính.

"Chúng tôi phải bảo đảm được nguồn vốn rẻ, nguồn vốn phù hợp, những hệ thống chuyển đổi số thanh toán làm sao cho doanh nghiệp cảm thấy thuận lợi và tự tin hơn trong việc kinh doanh của mình. Phải nói rằng chúng tôi đánh giá rất cao và nhìn nhận đây là một bước đổi mới rất lớn của Việt Nam", ông Phát chia sẻ thêm.

Ông Từ Tiến Phát, Tổng Giám đốc Ngân hàng Á Châu (ACB
Ông Từ Tiến Phát, Tổng Giám đốc Ngân hàng Á Châu (ACB).

Cũng theo ông Phát, về góc độ tài chính ngân hàng, cũng như phục vụ doanh nghiệp, ông thấy được 4 mối quan tâm của doanh nghiệp xuyên suốt nhiều năm qua, đó là 4 vấn đề: Chi phí, thủ tục, thị trường, làm sao để chuyển đổi xanh theo định hướng.

Ông Phát cho biết, khi đọc Nghị quyết số 68-NQ/TW thì điều đầu tiên ông thấy được truyền cảm hứng, rất hạnh phúc, nhưng có một phần đâu đó là ngạc nhiên. Tại vì một Nghị quyết của Đảng đi rất sát vào thực tiễn kinh doanh của doanh nghiệp như này thì rất tuyệt vời.

Lãnh đạo ACB cũng nói về những quan tâm của doanh nghiệp. Thứ nhất là chi phí, điều đầu tiên là miễn thuế. Việc miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong 3 năm đầu, điều này là tuyệt vời. Trong 3 năm đầu là thời gian sinh tồn của doanh nghiệp, những doanh nghiệp mới phát triển, đặc biệt là các doanh nghiệp start-up, họ đầu tư, có thể một phần đầu tư trong đó là mạo hiểm, thì 3 năm đầu miễn thuế là một cách nuôi dưỡng các doanh nghiệp đó.

Hiện nay doanh nghiệp của chúng ta đa số là nhỏ và siêu nhỏ, và thường là trên 50% khi doanh nghiệp thành lập ra 1-2 năm đầu khó tồn tại được. Vì thế, đây là một chính sách rất tốt.

Thứ hai là việc tiếp cận tài sản là đất công. Để thuê được những tài sản với chi phí phù hợp, cạnh tranh, là một điều tương đối khó khăn với doanh nghiệp. Doanh nghiệp vừa và nhỏ trong thời gian vừa qua đã dễ dàng trong việc tiếp cận, tuy nhiên họ gặp những cản trở như là tài sản thế chấp, cho vay như thế nào, định giá tài sản như thế nào, cũng như việc minh bạch về thuế như thế nào.

"Phải nói rằng Nghị quyết số 68-NQ/TW có các điểm rất cởi mở, tất nhiên thời gian tới cũng cần hiện thực về quy định, thể chế để làm sao chính sách này có thể đi vào cuộc sống", ông Phát nói.

Còn tiếp...

Bài viết: Hậu Lộc

Đồ họa: Trung Đức

LOẠT BÀI VIẾT “NGHỊ QUYẾT MỞ RA KỶ NGUYÊN MỚI CHO KINH TẾ TƯ NHÂN”

Bài 1: Đảng mở lối, trao đòn bẩy

Bài 3: Phá bỏ "bức tường băng"

Bài 4: Định vị lại để cất cánh

Bài 5: Sứ mệnh vì Việt Nam hùng cường, thịnh vượng

Trung Đức Hậu Lộc