Ký ức thời thanh xuân rực lửa
![]() |
Cựu chiến binh Nguyễn Văn Thao
Bài liên quan
Tuổi trẻ Thủ đô luôn hướng về biển đảo quê hương
Đồng chí Lê Đức Anh - Vị tướng tài ba, nhà lãnh đạo xuất sắc
Hành trình tháng Ba biên giới của tuổi trẻ Hoàng Mai
Xây dựng "thế trận lòng dân" ở khu vực biên giới Hà Giang
Những mái ấm nghĩa tình quân dân nơi biên cương xứ Lạng
Chuyện về người lính quân hàm xanh trên trận tuyến chống ma túy
Đau thương làm nên chiến thắng
Một chiều hè oi ả tháng 4, tôi tìm đến gặp ông Nguyễn Văn Thao (cựu chiến binh quận Đống Đa). Người lính năm xưa nay tóc đã bạc trắng, đi lại không còn nhanh nhẹn nhưng khi được hỏi về những năm tháng chiến đấu thời trai trẻ, ông vẫn kể bằng một tinh thần, khí thế hừng hực của tuổi thanh xuân.
Ông Thao vốn làm công nhân lái máy cày cho Xí nghiệp cơ khí trực thuộc Bộ Nông nghiệp. Năm 1962, khi chuyển về công tác tại đội máy kéo số 2 Thường Tín, ông được giác ngộ Cách mạng và xung phong vào quân ngũ, trở thành lính phòng không không quân ở tuổi đôi mươi. Ông kể, lúc ấy đi là đi, cũng không hình dung được chiến trường sẽ ác liệt như thế nào. Những thanh niên thế hệ của ông đều một lòng hướng chiến trường, không tiếc xương máu vì non sông đất nước.
Nhớ về những ký ức năm xưa, người lính già bật khóc nức nở. Đất nước đã hòa bình, những vết thương trên cơ thể mỗi người lính đã lành nhưng có những đau thương, mất mát trong tâm hồn họ không gì xóa hết. Ông vẫn nhớ như in trận chiến của những năm 1966 - 1967, khi ông là chính trị viên của Đại đội Chỉ huy, Trung đoàn 220, Sư đoàn Phòng không 367. Đơn vị ông nhận nhiệm vụ bảo vệ Đại đội pháo 100 nằm ở phía Nam Hà Nội trước sự tập trung đánh phá ác liệt của quân Pháp. Dù đã được quân dân tiếp viện nhiều, đã bắn rơi được 2 máy bay nhưng cuối cùng, đơn vị ông đã chẳng thể bảo vệ Đại đội pháo 100. Thương vong ấy, mất mát ấy đến nay vẫn là nỗi đau trong lòng người lính già mỗi khi ông nhớ lại.
Nhưng lịch sử là vậy, có những mất mát, hi sinh mới có những chiến công oanh liệt. Nhắc về chiến dịch Hồ Chí Minh, giọng nói của ông bỗng trở nên hào sảng. Trong chiến dịch đó, đơn vị ông được huy động bảo vệ tuyến giao thông Bắc Nam, đảm bảo cho xe quân đội ta tiến vào Nam an toàn trước sự tấn công của quân đội Mỹ. Đơn vị tập trung bảo vệ tại các bến phà, bến cầu, vừa đánh vừa di chuyển.
“Ngày ấy anh em không còn nghĩ gì đến sự sống còn. Đang hành quân mà có lệnh là triển khai chiến đấu luôn. Khi nhận được lệnh Chiến dịch Hồ Chí Minh, đơn vị hành quân thần tốc với khí thế cao ngất, chia làm 2 tuyến, một tuyến đánh từ Buôn Mê Thuột xuống và 1 tuyến đánh thẳng vào sân bay Phú Lợi” – ông Thao kể.
Như đang sống lại những năm tháng hào hùng, ông Thảo kể tiếp: “Trận đánh ở Bình Dương, chúng tôi đã có kế hoạch là xe tăng đi trước, pháo cao xạ theo sau, rồi mới đến lực lượng bộ binh. Theo kế hoạch, khi Chỉ huy trưởng chỉ lên cờ của quân địch tại Bình Dương thì pháo bắn lên trước rồi tất cả xung phong. Kế hoạch chưa kịp thực hiện thì đã nhận được tin tỉnh trưởng Bình Dương đã thắt cổ tự tử. Bình Dương giải phóng nhờ lực lượng hùng hậu, kết hợp địch vận tốt”.
Cũng giống cựu chiến binh Nguyễn Văn Thao, vừa tròn 18 tuổi, ông Dương Thành Quân (Trung Liệt, Đống Đa), xung phong tham gia nhập ngũ. Ông đầu quân cho Sư đoàn 320B chuyên huấn luyện quân cho Sư đoàn 320 A trong Nam, đóng quân ở huyện Hoàng Long (Ninh Bình). Từ năm 1971 tới năm 1973, ông Quân tham gia chiến đấu tại Lào.
Ông Quân kể, ký ức của người lính không chỉ có những năm tháng chiến đấu quên mình, kí ức ấy còn có không ít những hi sinh, mất mát, đau thương để từ đó thêm “lửa” trong mỗi trận đánh.
“Có những trận đánh kéo dài một tuần lễ, lúc đánh không nghĩ gì, nhưng khi giải phóng xong một cứ điểm, địch rút đi, anh nuôi gùi cơm lên tiếp viện, cầm nắm cơm đi qua các cửa hầm gọi chỉ có 1-2 người giơ tay nhận, còn lại hi sinh hết. Sau bao năm, tôi vẫn nhớ như in hình ảnh anh nuôi cầm nắm cơm đứng khóc” – ông Quân nhớ lại.
Khí chất người lính
17 tuổi, chàng thanh niên Đinh Minh Giới tình nguyện lên đường nhập ngũ, tình nguyện vào chiến trường Miền Nam chiến đấu. Thời thanh xuân ông Giới có vóc người nhỏ bé, chỉ nặng có 35 cân. Vác lên vai chiếc ba lô nặng đúng bằng số cân của mình mang đầy gạo, hành lý tư trang, ông cùng đồng đội hành quân qua các địa hình rừng núi, sông suối, đi xuyên đêm suốt 2 tháng trời để vào chiến đấu tại chiến trường Quảng Nam.
Kể về những ngày tháng ấy, ông bảo, không một lời văn nào có thể diễn tả được hết những vất vả của lính bộ binh. Sau những đêm đi xuyên rừng đối mặt với vắt, muỗi; những chiều hành quân giữa cơn mưa rừng, bơi qua sống suối… mà lương thực không còn, nhiều đồng đội của ông đã “ngủ” lại nơi rừng thiêng nước độc bởi những cơn sốt rét rừng, bởi đuối sức khi bơi qua sông. “Ngày ấy, một đọt khoai ven đường, một con cua bắt được nơi khe suối cũng là bữa ăn xa xỉ đối với anh em. Một bát gạo có thể nấu thành cháo loãng ấm lòng cho cả tiểu đội” – ông Giới kể.
Giờ đây, nhiều lúc nghĩ lại, người lính già cũng không hiểu nổi động lực nào khi ấy đã tạo nên sức mạnh phi thường đến vậy, có lẽ bởi trong lòng mỗi người lính đều có lòng quyết tâm sẽ đánh thắng giặc Mỹ để đất nước thống nhất, nhà nhà được sum vầy.
Sau khi hành quân vào đến Hiệp Đức, ngay sáng hôm sau, ông và đồng đội đã phải ra trận ngay. Chàng lính bộ binh trẻ khi ấy tiếp tục gùi lên vai 10 quả B40, mang theo 1 quả B40 đã gài trong súng cùng đồng đội tham gia đánh Cao điểm 238 ở Quế Sơn, Quảng Nam. Lần đầu tham gia chiến đấu nhưng trong người lính trẻ tràn ngập một quyết tâm đánh thắng giặc. “Trận chiến ấy, tôi bắn đến quả pháo thứ 2 thì trúng lô cốt địch, đồng thời bị thương luôn. Giữa làn pháo bom dội xuống dồn dập, tôi xé vội quần áo tự băng bó cho mình rồi tiếp tục chiến đấu” – Ông Giới kể.
Ngoài trận đấu “ban đầu” ấy, trận đấu khiến ông nhớ mãi là khi đánh lên Cao điểm không tên, cả Tiểu đội chỉ có 3 người, ông là đội trưởng. Sau nhiều giờ giằng co với quân địch, Tiểu đội của ông mới lên đến Cao điểm, vừa lên tới nơi pháo địch đã bắn đồng đội ông rơi một mắt, còn hai người bị địch vây kín đồi. Để đánh lạc hướng, khiến địch hoang mang về quân số, ông cùng đồng đội nhặt lựu đạn ném từ nhiều phía. Kiên cường cầm cự, tới 11 giờ trưa, ông cùng đồng đội mới được thay ca.
Rồi khi đánh cao điểm Nông Sơn, cạnh sông Thu Bồn, ông cùng đồng đội bỏ đầy bao cát lăn ngược đồi để vây lấn lên giữa làn đạn dày đặc của địch, làm chủ cao điểm trước sự ngỡ ngàng của địch. “Ngày đó, địch tuyên bố, nếu Cộng sản lấy được cao điểm thì nước sông Thu Bồn chảy ngược lại nhưng quân ta vẫn làm chủ cao điểm, bởi có chiến thuật, xác định được địch, hướng tấn công, mục tiêu tấn công… Cao điểm này có 8 hàng rào nhưng khi trinh sát báo về chỉ có 7 hàng rào. Khi phá 7 hàng rào còn 1 hàng rào đơn, khi đó đồng chí đại đội trưởng bế từng đồng chí “tung” qua hàng rào. Khi vào tới nơi, địch đang ngồi run cầm cập” – ông Giới kể.
Trải qua những năm tháng vào sinh ra tử, với những người chiến sĩ năm xưa, tình cảm đồng chí, đồng đội là thứ quý giá chẳng gì so sánh được. Bởi vậy khi nghỉ hưu, tham gia và giữ chức Chủ tịch Hội cựu chiến binh quận Đống Đa, ông Giới luôn quan tâm bảo vệ quyền lợi cho anh em hội viên; thường xuyên giúp đỡ những cựu chiến binh năm xưa đảm bảo cuộc sống.
Những ngày này, họ thường ngồi lại với nhau để hồi tưởng lại ký ức nơi chiến trường, như nhớ về những năm tháng gian khổ mà tươi đẹp nhất của cuộc đời…
Tin liên quan
Cùng chuyên mục
Đọc thêm

Bế mạc Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII

Triển khai quyết liệt “những việc cần làm ngay” để đạt các chỉ tiêu đề ra

Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII: Tập trung vào 3 nhóm vấn đề

Tổng Bí thư Tô Lâm phát biểu khai mạc Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII

Tổng Bí thư Tô Lâm thăm, làm việc tại Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng

Báo chí phải phản ánh hào khí và sức vươn lên của dân tộc

Đồng lòng vượt qua khó khăn, thách thức, đưa đất nước phát triển nhanh, bền vững trong kỷ nguyên mới

Đại đoàn kết dân tộc là cội nguồn sức mạnh, mang đến mọi thắng lợi to lớn, vẻ vang*

Nhân tố quan trọng giúp tăng cường quan hệ hợp tác, hữu nghị giữa Việt Nam với các nước
