Quảng Nam: Phòng Tài nguyên và Môi trường TP Hội An chậm tham mưu thi hành án?
TAND cấp cao tại Đà Nẵng tổ chức thẩm định tại chỗ thửa đất của hộ ông Võ Vĩnh |
Tham mưu chậm nhưng không có lý do
Thực hiện Quyết định Buộc thi hành án hành chính số 15/2022/QĐ-UBND ngày 15/9/2022 của Chánh án Toà án Nhân dân (TAND) tỉnh Quảng Nam, ngày 26/9/2022 UBND TP Hội An (Quảng Nam) ban hành Công văn số 2628 về việc chỉ đạo thực hiện Bản án số 98/2022/HC-PT ngày 13/4/2022 của TAND Cấp cao tại Đà Nẵng.
Theo đó, UBND TP Hội An đã chỉ đạo Phòng Tài nguyên và Môi trường (TNMT) chủ trì, phối hớp với Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai và UBND xã Cẩm Hà tham mưu cho thành phố tổ chức thi hành theo đúng quy định pháp luật. Nội dung tham mưu gửi về UBND Thành phố trước ngày 10/10/2022.
Được biết, Công văn 2628/UBND được gửi cho phòng TNMT, Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai Hội An và UBND xã Cẩm Hà để triển khai thực hiện. Tuy nhiên, đến thời điểm hiện tại việc thi hành bản án hành chính có hiệu lực pháp luật vẫn chưa được các cơ quan tham mưu cho UBND TP Hội An để thi hành bản án cho ông Võ Vĩnh (trú tại thôn Đồng Nà, xã Cẩm Hà, thành phố Hội An).
Xuất phát từ việc chậm trễ từ cơ quan tham mưu là Phòng TNMT TP Hội An dẫn đến bản án vẫn chưa được thi hành theo quy định pháp luật, khiến người được thi hành án là ông Võ Vĩnh vô cùng bức xúc.
Luật sư Nguyễn Thành Long - Đoàn Luật sư tỉnh Quảng Nam |
Trước đó, UBND TP Hội An đã có văn bản gởi cho TAND cấp cao tại Đà Nẵng để yêu cầu giải thích bản án theo quy định tại Điều 310 của Luật Tố tụng hành chính năm 2015, vì cho rằng Bản án số 98/2022/HC-PT ngày 13/4/2022 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng tuyên chưa rõ, gây khó khăn cho việc thi hành án.
Liên quan đến văn bản này của UBND TP Hội An, Luật sư Nguyễn Thành Long, Đoàn Luật sư tỉnh Quảng Nam cho rằng, Bản án số 98/2022/HC-PT ngày 13/4/2022 của TAND Cấp cao tại Đà Nẵng đã nhận định rõ ràng trên cơ sở các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án và phần tuyên xử dựa trên các căn cứ pháp luật.
Theo đó, hội đồng xét xử cấp phúc thẩm đã nhận định: Gia đình ông Vĩnh sử dụng đất có nhà ở, công trình xây dựng và cây lâu năm từ năm 1996 đến nay, sử dụng đất không có tranh chấp, ranh giới khuôn viên khép kín, phù hợp với quy hoạch sử dụng đất nên cần áp dụng điểm a, khoản 2 Điều 20 Nghị định 43/2014/NĐ-CP hướng dẫn Điều 101 Luật Đất đai 2013 để cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất với toàn bộ diện tích thửa đất 2/1, tờ bản đồ số 20 tại thông Đồng Nà, xã Cẩm Hà, thành phố Hội An.
Như vậy, để thi hành án bản án này UBND TP Hội An chỉ cần áp dụng điều luật như Bản án quyết định để lập thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho gia đình ông Võ Vĩnh theo trình tự quy định pháp luật.
Buộc thi hành án đối với UBND TP Hội An
Trước đó, Chánh án TAND tỉnh Quảng Nam đã ban hành Quyết định số 15/2022/QĐ-THA về việc buộc thi hành án hành chính đối với Bản án hành chính có hiệu lực pháp luật số 98/2022/HC-PT ngày 13/4/2022 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng.
Theo đó, buộc thi hành án đối với UBND xã Cẩm Hà, UBND TP Hội An và Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai TP Hội An thuộc Văn phòng Đăng ký đất đai tỉnh Quảng Nam; Buộc UBND TP Hội An cấp Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất cho gia đình ông Võ Vĩnh (trú tại thôn Đồng Nà, xã Cẩm Hà) đối với thửa đất số 2/1, tờ bản đồ số 20.
Tại điều 3 của Quyết định số 15/2022/QĐ-THA về việc buộc thi hành án hành chính của TAND tỉnh Quảng Nam nêu rõ: “Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Nam có trách nhiệm kiểm tra, đôn đốc và xử lý trách nhiệm của UBND TP Hội An; Chủ tịch UBND TP Hội An có trách nhiệm kiểm tra, đôn đốc và xử lý trách nhiệm của UBND xã Cẩm Hà".
Quyết định của Chánh án TAND tỉnh Quảng Nam cũng đã yêu cầu Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Quảng Nam có trách nhiệm kiểm tra, đôn đốc và xử lý trách nhiệm của Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai Hội An thuộc Văn phòng Đăng ký đất đai tỉnh Quảng Nam”.
Tuy nhiên, đến thời điểm hiện nay, tất cả các vấn đề được nêu trong Quyết định số 15/2022/QĐ-THA của Chánh án TAND tỉnh Quảng Nam vẫn chưa được bên phải thi hành án thực hiện.
Quyết định số 15/2022/QĐ-THA về việc buộc thi hành án hành chính đối với Bản án hành chính có hiệu lực pháp luật số 98/2022/HC-PT ngày 13/4/2022 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng |
Xác định rõ trách nhiệm người đứng đầu
Liên quan đến việc chậm thi hành các Bản án hành chính trên địa bàn, ngày 8/10, UBND tỉnh Quảng Nam đã có Báo cáo số 186 về kết quả thi hành án hành chính năm 2022 trên địa bàn tỉnh. Theo UBND tỉnh, trong năm 2022 có 34 bản ánh, quyết định về vụ án hành chính phải thi hành trong kỳ báo cáo; Trong đó có 16 vụ từ năm trước chuyển sang và có 18 vụ phát sinh.
Về kết quả thi hành án, UBND tỉnh cho biết trong năm 2022 có 18 bản án, quyết định về vụ án hành chính đã được thi hành xong. Tuy nhiên, hiện vẫn còn 16 bản án chưa thi hành xong. Những hạn chế, tồn tại dẫn đến chậm thi hành án, UBND tỉnh cho rằng do nhận thức pháp luật của một bộ phận cán bộ, công chức và người dân về công tác thi hành án hành chính còn hạn chế.
Ngoài ra, một số cơ quan hành chính nhà nước (người phải thi hành án) không thống nhất với nội dung bản án nên đã có văn bản đề nghị cấp có thẩm quyền xem xét kháng nghị nội dung bản án đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm, dẫn đến việc tổ chức thi hành bản án chậm.
Về khó khăn, vướng mắc, UBND tỉnh cho biết một số bản án, quyết định của tòa án về vụ án hành chính có nội dung tuyên không phù hợp với trình tự, thủ tục, thẩm quyền, điều kiện theo quy định của Luật Đất đai, nên Sở TNMT không thể tổ chức thi hành đầy đủ các nội dung theo phán quyết của tòa án.
Hơn nữa, một số bản án, quyết định của tòa án tuyên buộc cơ quan hành chính thực hiện bồi thường, cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất… chưa cụ thể, chưa rõ ràng, dẫn đến tình trạng kéo dài việc thi hành án do không có cơ sở pháp lý để tổ chức thi hành.
Ông Võ Vĩnh (bên trái) tại TAND cấp cao Đà Nẵng |
Theo UBND tỉnh, một số quy định pháp luật, nhất là lĩnh vực đất đai còn chồng chéo, có nhiều thay đổi qua các thời kỳ, dẫn đến việc áp dụng pháp luật để thi hành các bản án, quyết định của tòa án chưa thống nhất.
Lý giải về nguyên nhân chậm thi hành ánh, UBND tỉnh cho rằng nguyên nhân chủ quan chính là một số cơ quan, người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước là bên phải thi hành án chưa thực hiện nghiêm công tác thi hành án hành chính.
Theo đó, thủ trưởng cơ quan cấp trên trực tiếp của một số cơ quan, người phải thi hành án chưa quyết liệt trong việc đôn đốc, kiểm tra, xử lý trách nhiệm đối với người phải thi hành án thuộc thẩm quyền quản lý. Trong khi đó, công tác thi hành án hành chính theo quy định vẫn là cơ chế “tự thi hành”.
Trước những thực trạng trên, UBND tỉnh kiến nghị tiếp tục đôn đốc, kiểm tra, làm rõ nguyên nhân, đề ra giải pháp phù hợp để tổ chức thi hành dứt điểm các bản án hành chính đã có hiệu lực theo quy định, nhất là những bản án hành chính đã kéo dài nhiều năm.
Đồng thời, UBND tỉnh yêu cầu tiếp tục quán triệt, triển khai thực hiện có hiệu quả Luật Tố tụng hành chính, Nghị định số 71/2016/NĐ-CP và Chỉ thị số 26/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ; Xác định rõ trách nhiệm của người đứng đầu các ngành, địa phương trong việc chấp hành, chỉ đạo chấp hành nghiêm pháp luật tố tụng hành chính, thi hành kịp thời, đầy đủ các bản án hành chính đã có hiệu lực pháp luật.
Điểm a điều 20 Nghị định 43/2014/NĐ-CP Điều 20. Cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất mà không có giấy tờ về quyền sử dụng đất và không vi phạm pháp luật đất đai 2. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất có nhà ở, công trình xây dựng khác trong thời gian từ ngày 15 tháng 10 năm 1993 đến trước ngày 1 tháng 7 năm 2004; Nay được Ủy ban Nhân dân cấp xã xác nhận là không có tranh chấp sử dụng đất; Phù hợp với quy hoạch hoặc không phù hợp với quy hoạch nhưng đất đã sử dụng từ trước thời điểm phê duyệt quy hoạch hoặc sử dụng đất tại nơi chưa có quy hoạch; Chưa có thông báo hoặc quyết định thu hồi đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với trường hợp phải thu hồi thì được công nhận quyền sử dụng đất như sau: a) Đối với thửa đất có nhà ở mà diện tích thửa đất nhỏ hơn hoặc bằng hạn mức giao đất ở quy định tại Khoản 2 Điều 143 và Khoản 4 Điều 144 của Luật Đất đai (sau đây gọi là hạn mức giao đất ở) thì toàn bộ diện tích thửa đất được công nhận là đất ở. Trường hợp thửa đất có nhà ở mà diện tích thửa đất lớn hơn hạn mức giao đất ở thì diện tích đất ở được công nhận bằng hạn mức giao đất ở; Trường hợp diện tích đất xây dựng nhà ở và các công trình phục vụ đời sống lớn hơn hạn mức giao đất ở thì công nhận diện tích đất ở theo diện tích thực tế đã xây dựng nhà ở và các công trình phục vụ đời sống đó. |