Bức ảnh đặc biệt
Cựu chiến binh Trần Đình Huân kể với tôi rằng, vào năm 2011, khi lần giở tập hồ sơ liệt sĩ của mặt trận 31, có tấm chân dung một người chiến sĩ trẻ măng, tươi tắn với má lúm đồng tiền rất duyên. Có lẽ, chính nụ cười tươi rói ấy đã động viên khích lệ người cựu chiến binh già mỗi khi tưởng như sắp sụp đổ vì quá sức với công việc của các liệt sĩ thuộc mặt trận 31!
Anh Huân bảo rằng, bức hình ấy và rất nhiều hình ảnh khác đã nằm trong núi hồ sơ, sơ đồ mộ chí của sư đoàn 31 ít nhất là 40 năm, thời gian đủ lâu để khi ra gió có thể làm tiêu tan hình ảnh gốc, may mà anh nhanh tay chộp lại được kịp thời.
Trong suốt 5 năm qua, anh đã cài bức ảnh làm màn hình nền điện thoại, luôn mang theo bên mình ngay cả khi làm việc, đi công tác, đi họp hay vào các nghĩa trang liệt sĩ. Mỗi lần nghe hay gọi điện thoại thì hình ảnh người đồng đội lại đối diện trước mắt anh. 5 năm ấy, với hàng vạn lần gọi và nghe điện thoại, trong đầu anh luôn hiện lên câu hỏi “Anh là ai? Quê anh ở đâu? Anh ở đơn vị nào? Anh còn sống hay đã thành liệt sĩ…?”.
Như một sự sắp đặt của số phận, cũng có thể đó là một mối nhân duyên khi 600 cựu quân tình nguyện và chuyên gia quân sự giúp cách mạng Lào trên địa bàn Hà Nội tổ chức gặp mặt vào giữa tháng 11/2015. Trung tá Bùi Minh Sơn, một cựu chiến binh của tiểu đoàn 25 Công binh đã nhận ra người trong ảnh. Sở dĩ nhận ra liệt sĩ bởi anh Sơn là người từng kết hợp với CCB Nguyễn Tiến Dũng tổ chức biên soạn cuốn sách “Từ điển Cánh đồng Chum- Xiêng Khoảng” nên các thông tin về liệt sĩ mặt trận 31 anh nắm khá rõ.
Khi anh Huân kể về nguồn gốc bức ảnh, anh Sơn ngỡ ngàng thốt lên rằng “Tôi nhận ra người trong ảnh ấy nhưng... thiếu khẩu B41”. Giây phút ấy, CCB Trần Đình Huân hạnh phúc đến không thốt nên lời. “Đúng là bức ảnh ấy có thêm khẩu B41 nhưng khi cài màn hình điện thoại nó đã bị che khuất bởi các tệp tin nên anh Sơn không nhìn thấy. Khi tôi để riêng bức ảnh ra, Sơn đọc tên người chiến sĩ ấy. Để chắc chắn, Sơn còn giở cuốn “Từ điển Cánh Đồng Chum- Xiêng Khoảng” để tìm. Niềm vui vỡ òa trong cuộc hành trình dài 5 năm ấy. 5 năm với 1.800 ngày đêm tôi đi tìm tên anh và nay tôi đã có thông tin đầy đủ” - CCB Trần Đình Huân ngậm ngùi kể lại.
Tấm ảnh đen trắng được dùng trong cuốn “Từ điển Cánh Đồng Chum- Xiêng Khoảng” dù không còn nét, nhưng cả hai anh đều nhận ra những đặc điểm trùng khớp với bức ảnh lưu giữ suốt 5 năm qua. Người trong ảnh chính là Hoàng Đăng Miện, SN 1953 tại thôn Đông Bình, xã Thịnh Đức, huyện Gia Lương, tỉnh Hà Bắc cũ, nay là huyện Lương Tài, tỉnh Bắc Ninh. Anh thuộc quân số của Trung đoàn 165, sư đoàn 312. Trong trận Đồi Cháy ác liệt năm 1972, tại làng Như Lệ, xã Hải Lệ, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị, anh đã anh dũng hi sinh.
Lần tìm kí ức cũ
Sau cuộc gặp gỡ các cựu chiến binh của mặt trận 31 tại Hà Nội trở về, CCB Trần Đình Huân gọi điện cho người đồng đội thân thiết của mình quê ở Bắc Ninh - CCB Nguyễn Quang. Anh Huân nhấn mạnh rằng, sở dĩ gọi vì anh Quang từng là quân số của trung đoàn 165 sư đoàn 312, có thể anh ấy sẽ biết về liệt sĩ.
Không ngoài dự đoán của anh Huân, khi nghe tên Hoàng Đăng Miện, anh Quang đã kể rất chi tiết về người đồng đội năm nào bởi anh biết Miện từ những ngày còn là lính tân binh cho đến khi hi sinh ở Hải Lệ, Quảng Trị.
Qua kí ức của CCB Nguyễn Quang, hình ảnh liệt sĩ Hoàng Đăng Miện dần hiện lên. Đó là những ngày đầu mùa mưa tháng 6/1971, tân binh Hoàng Đăng Miện vừa tròn 18 tuổi đến Cánh Đồng Chum trong đội hình của đại đội 12, tiểu đoàn 6, Trung đoàn 165, Sư đoàn 312. Sau đó, anh được phiên chế vào khẩu đội Đại liên cùng với Nguyễn Quang. Ít lâu sau, anh được điều sang đơn vị chủ công của Đại đội 9 thành xạ thủ B40, B41… cũng chính là khẩu súng anh đang vác trên vai trong tấm ảnh. Để chắc chắn, CCB Trần Đình Huân còn gửi bức hình cho CCB Nguyễn Quang. Sau khi xem hình, anh Quang khẳng định, đó chính là người đồng đội Hoàng Đăng Miện. Ở hai đầu điện thoại, hai CCB cùng nhìn đồng đội cũ của mình qua ảnh với nhiều cảm xúc khó tả…
Cũng qua CCB Nguyễn Quang, một hình ảnh đẹp đẽ khác của liệt sĩ Hoàng Đăng Miện được kể chi tiết hơn, như một cuốn phim quay chậm về liệt sĩ.
Đó là một chàng trai sử dụng thành thạo súng B41, mỗi lần bóp cò là đạt kết quả. CCB Nguyễn Quang còn nhớ như in chiến dịch với mật danh “Z139”, Hoàng Đăng Miện trong đội hình Sư đoàn 312 tham gia chiến dịch này đã đạt nhiều thành tích, anh nổi lên như một ngôi sao và từng được đơn vị tặng cho biệt danh là “Bông sen thép”.
Tháng 4/1971, sư đoàn 312 rời chiến trường Lào về nước, củng cố đội hình. Tháng 6/1972, Hoàng Đăng Miện cùng Sư đoàn 312 tham gia bảo vệ Thành cổ Quảng Trị. Mặt trận Trị Thiên từ những ngày cuối tháng 6 cho đến tháng 9/1972 diễn ra phức tạp, giằng co quyết liệt giữa ta và địch. Các đơn vị bảo vệ thị xã và Thành cổ Quảng Trị đã kiên cường giữ vững trận địa dưới bom đạn cực kì ác liệt, trong điều kiện tương quan lực lượng rất chênh lệnh, không có lợi cho ta. Trong các trận đánh tại Như Lệ và trận đồi Cây mít, Hoàng Đăng Miện vẫn là xạ thủ B41, sau đó anh là trung đội trưởng. Ngày 9/9/1972, trong khi tiến công Đồi Cháy, một điểm cao nằm ở phía Đông Nam Như Lệ, Hải Lệ, Hải Lăng, Quảng Trị, Hoàng Đăng Miện đã hi sinh khi anh vừa lên thay chỉ huy đại đội. Trong trận chiến ấy, chúng ta đã làm chủ Đồi Cháy, nhưng Hoàng Đăng Miện đã mãi mãi nằm lại nơi này. Khi ấy CCB Nguyễn Quang đang là thông tin tiểu đoàn bộ nên anh nhớ rất chi tiết về người đồng hương anh dũng Hoàng Đăng Miện.
Với những thành tích đạt được qua 19 tháng chiến đấu trong quân ngũ, Hoàng Đăng Miện đã được tặng thưởng 1 Huân chương Chiến công Giải phóng hạng Nhất, 2 Huân chương Chiến công Giải phóng hạng Nhì, 2 Huân chương Chiến công Giải phóng hạng Ba, 1 lần được tặng danh hiệu Chiến sĩ Quyết thắng, 2 lần được tặng danh hiệu Chiến sĩ thi đua. Ngày 23/9/1973, Hoàng Đăng Miện được Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam truy tặng danh hiệu cao quý Anh hùng lực lượng vũ trang giải phóng.
Khẩu B41 mà liệt sĩ Hoàng Đăng Miện khoác trên vai chính là khẩu súng mà anh đã dùng để bắn 30 quả đạn, phá hủy 20 mục tiêu, diệt 70 tên địch trong chiến dịch Quảng Trị năm 1972. Đặc biệt, ngay cả giây phút hi sinh, tay anh vẫn ôm chặt khẩu B41 ấy. Khẩu súng đó sau này được Trung đoàn 165, Sư đoàn 312 trao tặng cho Bảo tàng Lịch sử Quân sư Việt Nam khi họ đến đơn vị sưu tầm hiện vật truyền thống. Hiện nay, khẩu súng vẫn được lưu giữ ở vị trí trang trọng của Bảo tàng với số đăng kí là 6526 K3 1653.