Bàn giải pháp tháo gỡ khó khăn phát triển giáo dục vùng Đồng bằng sông Hồng
Ngày 14/6, tại tỉnh Nam Định, Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT) tổ chức Hội nghị phát triển giáo dục và đào tạo vùng đồng bằng sông Hồng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Triển khai thực hiện Nghị quyết số 30-NQ/TW ngày 23/12/2022 của Bộ Chính trị về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng đồng bằng sông Hồng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Dẫn đầu trong 6 vùng kinh tế - xã hội về hầu hết các chỉ số giáo dục và đào tạo
Phát biểu khai mạc Hội nghị, Bộ trưởng Bộ GD&ĐT Nguyễn Kim Sơn nhìn nhận: Thời gian qua, giáo dục và đào tạo của vùng Đông bằng sông Hồng đã đạt được những kết quả quan trọng, đáng ghi nhận nhờ sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy, chính quyền, sự nỗ lực cố gắng của đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục, sự quan tâm của toàn xã hội.
Bộ trưởng Bộ GD&ĐT Nguyễn Kim Sơn phát biểu tại hội nghị |
Tuy nhiên, giáo dục của vùng vẫn còn những tồn tại, hạn chế và khó khăn, thách thức. Với việc tổ chức Hội nghị phát triển giáo dục và đào tạo vùng Đồng bằng sông Hồng, Bộ trưởng cho biết: Bộ GD&ĐT mong muốn sẽ cùng với các địa phương thảo luận, nhận diện bức tranh giáo dục; Trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm về những việc đã làm được trong thời gian qua và trên cơ sở đó đề ra các giải pháp để tiếp tục phát triển giáo dục vùng đồng bằng sông Hồng đến năm 2030, tầm nhìn 2045.
Báo cáo tình hình phát triển giáo dục và đào tạo vùng Đồng bằng sông Hồng giai đoạn 2011-2022 và nhiệm vụ, giải pháp phát triển giáo dục và đào tạo đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, Thứ trưởng Hoàng Minh Sơn cho biết: Năm học 2022-2023, toàn vùng Đồng bằng sông Hồng có 11.440 cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông, thường xuyên.
Tỷ lệ huy động trẻ em, học sinh đi học đúng độ tuổi ở cấp học của vùng đều gia tăng và đứng đầu cả nước. Tỷ lệ huy động trẻ nhà trẻ đạt 39,9% (cao hơn 14,5% so với bình quân cả nước). Tỷ lệ huy động trẻ mẫu giáo đạt 98,6% (cao hơn 6,2% so với bình quân cả nước). Tỷ lệ đi học đúng độ tuổi các cấp học phổ thông lần lượt là 99,9% đối với cấp Tiểu học; 98,7% đối với cấp THCS và 92,9% đối với cấp THPT.
Không chỉ nổi bật ở chất lượng giáo dục đại trà, Đồng bằng sông Hồng còn giàu truyền thống về giáo dục mũi nhọn và giáo dục năng khiếu. Tại Kỳ thi học sinh giỏi quốc gia năm 2023, 6/11 tỉnh trong vùng và Đại học Quốc gia Hà Nội nằm trong tốp 10 địa phương, đơn vị có nhiều giải học sinh giỏi quốc gia và nhiều giải Nhất học sinh giỏi quốc gia nhất cả nước.
Năm 2022, toàn vùng có 18 học sinh đạt giải Olympic khu vực, quốc tế và Kỳ thi Khoa học kỹ thuật quốc tế (chiếm 54,5% tổng sô thí sinh đạt giải). Năm 2023 đây tiếp tục là vùng có số học sinh được lựa chọn tham gia các đội tuyển tham dự Olympic quốc tế nhiều nhất cả nước. |
Giáo dục đại học của vùng ngày càng khẳng định là trung tâm đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao của cả nước. Toàn vùng hiện có 109 cơ sở giáo dục đại học và gần 600 cơ sở giáo dục nghề nghiệp.
Nhiều cơ sở giáo dục đại học đã được xếp hạng cao và tăng thứ bậc trên các bảng xếp hạng uy tín quốc tế. Số lượng sinh viên đại học đứng đầu cả nước. Công tác nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ đã đạt được nhiều kết quả tích cực, sản phẩm nghiên ngày càng tăng về số lượng và chất lượng.
Nhiều thuận lợi nhưng giáo dục Đồng bằng sông Hồng cũng đang đối diện với không ít khó khăn như thiếu trường, thiếu lớp; thiếu giáo viên. Bên cạnh đó, chất lượng lao động của vùng Đồng bằng sông Hồng mặc dù cao hơn so với mặt bằng chung của cả nước song vẫn còn thấp so với yêu cầu của một vùng kinh tế phát triển khi mà vẫn còn gần 2/3 lực lượng lao động chưa qua đào tạo hoặc không có bằng cấp/chứng chỉ.
Cần tập trung xây dựng các mô hình giáo dục phổ thông
Tại Hội nghị, đại diện các địa phương, ngành Giáo dục, cơ sở giáo dục đại học vùng Đồng bằng sông Hồng chia sẻ kết quả giáo dục đạt được, nhận diện khó khăn, thách thức; Đưa đề xuất và trao đổi giải pháp phát triển giáo dục và đào tạo Đồng bằng sông Hồng trong thời gian tới.
Bộ trưởng Bộ GD&ĐT Nguyễn Kim Sơn và các đại biểu chủ trì hội nghị |
Đánh giá trong giáo dục và đào tạo, vùng Đồng bằng sông Hồng là dẫn đầu cả nước với nhiều kết quả tích cực, GS.TS Nguyễn Văn Minh, Hiệu trưởng trường Đại học Sư phạm Hà Nội đưa ra minh chứng cụ thể, trong đó có 2 con số nhận diện, đó là: Kết quả thi tốt nghiệp THPT (chất lượng đào tạo đại trà) và kết quả thi học sinh giỏi quốc gia (đào tạo mũi nhọn) luôn chiếm ưu thế trong top 10 cả nước.
Một số thách thức giáo dục và đào tạo vùng đang đối mặt cũng được GS.TS Nguyễn Văn Minh chỉ ra. Trong đó có việc, dù tập trung hầu hết cơ sở giáo dục đại học lớn, nhưng chưa có sự kết nối đa chiều trong đào tạo nhân lực phục vụ phát triển kinh tế - xã hội cho vùng.
Rất nhiều khu công nghiệp ra đời, nhưng kèm theo đó là sự dịch chuyển cơ học về dân số, đặt ra yêu cầu về trường lớp, không gian hoạt động, đời sống văn hóa, tinh thần đang gặp không ít khó khăn, rộng hơn là dân trí, giáo dục môi trường.
GS.TS Nguyễn Văn Minh cho rằng cần tập trung xây dựng các mô hình giáo dục phổ thông bắt kịp với khu vực. Trong đó, ngoài chất lượng mũi nhọn, cần tính đến phân luồng, hướng nghiệp, nhằm vào nhân lực có chất lượng đáp ứng cho công nghệ cao; giảm thiểu cung ứng lao động phổ thông thuần túy…
Chia sẻ kết quả, thuận lợi, thách thức của giáo dục địa phương, ông Nguyễn Văn Phê, Giám đốc Sở GD&ĐT Hưng Yên kiến nghị sớm ban hành “Chiến lược phát triển giáo dục Việt Nam giai đoạn 2030, tầm nhìn đến năm 2045” để địa phương có căn cứ trong việc định hướng chiến lược phát triển giáo dục của địa phương. Ưu tiên đầu tư xây dựng trường lớp theo hướng đạt chuẩn quốc gia, giữ vững kết quả phổ cập giáo dục.
Bên cạnh đó, cần phát huy vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu trong xây dựng, triển khai thực hiện kế hoạch; Song song với đầu tư từ ngân sách nhà nước, khuyến khích huy động mọi nguồn lực để phát triển giáo dục và đào tạo.
Với các địa phương trong vùng, theo ông Nguyễn Văn Phê, cần tăng cường phối hợp, chia sẻ các kinh nghiệm, bài học, cách làm hay trong phát triển giáo dục ở mầm non, phổ thông.
Từ thực tiễn giáo dục Hà Nam, Giám đốc Sở GD&ĐT Phạm Anh Tuấn đề nghị, cần sớm có chỉ đạo điều chỉnh chính sách đối với việc thực hiện công tác phát triển ngành GDĐT nhằm hướng dẫn các chế tài về chế độ chính sách đảm bảo kịp thời, đúng quy định, hạn chế những sai phạm đáng tiếc. Việc thực hiện tinh giản biên chế phải tính đến đặc thù của ngành Giáo dục, đảm bảo định biên giáo viên trên lớp, không thực hiện cắt giảm biên chế theo tỷ lệ chung đối với ngành Giáo dục.
Ông Nguyễn Viết Hiển, Giám đốc Sở GD&ĐT Thái Bình thì đề nghị Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các bộ, ban, ngành quan tâm hỗ trợ địa phương đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu công nghiệp hóa - hiện đại hóa.
Thách thức vượt qua chính mình trong giáo dục và đào tạo
Phát biểu kết luận Hội nghị, bên cạnh ghi nhận những kết quả, thành tựu to lớn của giáo dục và đào tạo vùng Đồng bằng sông Hồng, Bộ trưởng Nguyễn Kim Sơn dành nhiều thời gian đề cập tới những thách thức trong phát triển giáo dục và đào tạo của vùng xuất phát từ chính vị trí cao và những thành tựu trong hiện tại.
Thách thức đầu tiên, theo Bộ trưởng là thách thức “vượt qua chính mình trong giáo dục và đào tạo”. “Nếu từ vị trí thấp khi giải quyết được những vấn đề thấp sẽ lên cao, nhưng khi đạt được kết qủa tốt thì việc đổi mới nữa, tăng trưởng nữa sẽ là thách thức. Thách thức vượt lên chính mình”, Bộ trưởng lý giải, đồng thời cho rằng, những gì là kinh nghiệm có thể sẽ là rào cản, níu kéo và tạo nên sức ỳ khi thực hiện đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo.
Ở vị trí “người dẫn đầu” trong giáo dục cũng đặt ra cái khó cho Đồng bằng sông Hồng khi phải giải quyết nhu cầu cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao và cả cung cấp nhân tài cho sự phát triển của vùng.
Với một vùng đất hiếu học, quan tâm tới sự học, giáo dục luôn nhận được quan tâm hàng đầu như Đồng bằng sông Hồng, theo Bộ trưởng, đây cũng là áp lực. Thách thức cho giáo dục của vùng còn đến từ đặc điểm tập trung dân cư cao với đòi hỏi cao về giáo dục. Nếu một số vùng khác quan tâm tới chỗ học thì Đồng bằng sông Hồng không chỉ dừng lại ở việc đến trường có chỗ học mà là học với chất lượng cao, đòi hỏi cao.
Chỉ ra những hạn chế, tồn tại xuất phát từ nhu cầu học tập cao, sự quan tâm lớn với giáo dục, Bộ trưởng nhắc tới vấn đề thiếu trường, thiếu lớp, thiếu giáo viên; Chọn trường, chọn lớp; Dạy thêm, học thêm; Áp lực thái quá cho học sinh; Bệnh thành tích trong giáo dục…
“Nếu ở vùng khác phải huy động trẻ đến trường thì ở đây phụ huynh phải xếp hàng để mua hồ sơ. Đó là câu chuyện phía sau của “tấm huân chương”. Chia sẻ điều này, Bộ trưởng nhấn mạnh một số vấn đề cần ưu tiên xử lý ngay của giáo dục vùng Đồng bằng sông Hồng để tiếp tục là mẫu mực và mẫu mực trên một tầm vóc mới của giáo dục. Trong đó, lưu ý các từ khóa: Hiện đại hoá, chuẩn hóa, hợp lý hóa, xã hội hóa, quốc tế hóa, số hóa, văn hóa hóa.
Nhấn mạnh cần đặt trọng tâm hiện đại hoá giáo dục và thực hiện chương trình giáo dục phổ thông 2018 là con đường quan trọng để hiện đại hóa, Bộ trưởng nhắc tới hiện đại hóa về cơ sở vật chất trường lớp, trong đó, cản trở đối với vùng Đồng bằng sông Hồng là “không phải không có nhưng cũ” và cái cũ đang cản trở khá nhiều khi “đập đi không xong, xây mới chưa được”, “làm thế nào để dũng cảm đập đi làm lại”.
Bộ trưởng cũng nhấn mạnh tới một số nhiệm vụ cụ thể khác như chuẩn bị kỹ lưỡng cho Kỳ thi tốt nghiệp THPT năm 2023; Phát huy lợi thế của một vùng tập trung cao và đa đạng các trường đại học, trong đó có những trường đại học hàng đầu để giải bài toán nhân lực và tạo con đường xây dựng xã hội học tập cho vùng đất hiếu học, thích học và học có chất lượng nhất cả nước.
Vùng đồng bằng Sông Hồng bao gồm 2 thành phố trực thuộc Trung ương là Hà Nội, Hải Phòng và 9 tỉnh: Quảng Ninh, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Hải Dương, Hưng Yên, Thái Bình, Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình. Đây là vùng có vai trò, vị trí chiến lược, quan trọng bậc nhất của cả nước về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại; Là trung tâm hàng đầu về y tế, giáo dục, đào tạo, khoa học, công nghệ với đội ngũ trí thức giỏi và lực lượng lao động có chất lượng cao. |