Bệnh nhân vỡ gan được cứu sống không cần phẫu thuật
Bệnh nhân được cứu sống là chị T.A.T, 19 tuổi ở Kế Sách, Sóc Trăng. Ngày 18/2, bệnh nhân bị tai nạn giao thông nhập viện tuyến trước, tình trạng nặng vượt khả năng chuyên môn nên được chuyển đến Bệnh viện Đa khoa Trung ương Cần Thơ cấp cứu lúc 17h40 ngày 18/2 trong tình trạng lừ đừ, tiếp xúc chậm, mạch nhanh, nhẹ, huyết áp thấp, chi lạnh, niêm nhợt.
E kíp can thiệp bệnh nhân bị vỡ gan |
Dựa vào thăm khám, xét nghiệm và kết quả CT-Scan bụng có cản quang, bệnh nhân được chẩn đoán sốc mất máu nặng, vỡ gan phức tạp, gẫy xương đùi, đa chấn thương… Bệnh nhân được hồi sức tích cực truyền máu, bù dịch, giảm đau, cố định nẹp bột chậu, đùi, cẳng chân bên phải.
Bệnh nhân có chỉ định can thiệp chụp và nút mạch cấp cứu cầm máu gan bị vỡ. BSCK2 Bùi Phi Hùng, Khoa Ngoại Tổng hợp thực hiện (bệnh nhân chỉ phải gây tê). Sau khi bơm thuốc cản quang, xác định được vị trí chảy máu trong gan, bác sĩ tiếp tục luồn một ống thông siêu nhỏ đường kính khoảng 1mm vào các nhánh động mạch cung cấp máu cho vùng gan bị vỡ, bơm keo làm tắc chỗ vỡ, giúp cầm máu.
Hình ảnh thoát mạch |
Sau 45 phút thực hiện, ca can thiệp đã thành công, giúp cầm máu nhanh chóng cho bệnh nhân. Sinh tồn và toàn trạng bệnh nhân cải thiện tốt dần.
Hình ảnh sau can thiệp |
Hiện tại, sức khỏe bệnh nhân đã tiến triển tốt, mạch, huyết áp ổn định, tình trạng chảy máu không còn, bụng mềm, ăn uống được, các xét nghiệm gần trở về bình thường. Khi tổn thương gan bệnh nhân ổn định, các bác sĩ sẽ xử lý tiếp tổn thương gãy xương đùi.
Theo BSCK2 Bùi Phi Hùng: “Gan là tạng đặc có thể tích lớn trong cơ thể. Trong chấn thương bụng kín, vỡ gan chiếm tỷ lệ gần 68%. Vỡ gan có nhiều mức độ khác nhau nếu không phát hiện và xử trí kịp thời dẫn đến chảy máu ổ bụng làm bệnh nhân bị sốc do mất máu và dễ dẫn đến tử vong.
Gan là cơ quan quan trọng trong cơ thể, đặc biệt gan chứa rất nhiều mạch máu. Nếu gan bị vỡ rất dễ bị mất máu nhanh vì vậy cần phải được điều trị kịp thời tránh để lâu nguy hiểm đến tính mạng người bệnh”.
Bệnh nhân bị vỡ gan ổn định sau can thiệp nút mạch |
Bảo tồn tối đa cơ quan nội tạng bị tổn thương, giúp bệnh nhân tránh được cuộc đại phẫu với nhiều biến chứng nguy hiểm… là những ưu điểm nổi trội của phương pháp nút mạch cầm máu điều trị chấn thương nội tạng.
Khi bị tổn thương động mạch hoặc các tạng như gan, thận, lách… do tai nạn giao thông, tai nạn trong lao động, sinh hoạt, bệnh nhân sẽ gặp nguy cơ mất máu, kéo theo một loạt các biến chứng nghiêm trọng như rối loạn hoạt động các chức năng sống của cơ thể, rối loạn đông máu, suy phủ tạng và dẫn đến tử vong.
Thông thường, bệnh nhân sẽ được chỉ định mổ cấp cứu để xử lý các tổn thương. Tuy nhiên, với phương pháp nút mạch cầm máu (không phải gây mê), bệnh nhân không phải trải qua những cuộc đại phẫu nặng nề kéo dài hàng giờ, tiềm ẩn biến chứng trong và sau phẫu thuật nguy hiểm như sốc mất máu, nhiễm trùng vết mổ... Thời gian thủ thuật ngắn, cầm máu được tức thì, hạn chế tối đa xâm lấn giúp tổn thương ở gan mau hồi phục để bệnh nhân nhanh chóng được xử lý những tổn thương khác. Đây là phương pháp can thiệp xâm lấn tối thiểu, điều trị tối đa được ứng dụng sâu rộng trên thế giới và một số bệnh viện tuyến Trung ương.
Theo BS Phong với hai hệ thống máy chụp mạch máu số hóa xóa nền (DSA) trong nhiều năm qua, ngoài can thiệp cấp cứu chấn thương gan như trên, bệnh viện đã triển khai hoạt động cấp cứu 24/7, rất nhiều trường hợp bệnh nhân nguy kịch, sốc mất máu do “ho ra máu sét đánh” trên nền lao phổi, u gan vỡ, chảy máu mũi, chấn thương thận, chảy máu đường tiêu hóa… đã được bác sĩ bệnh viện “cứu thoát cửa tử” bằng phương pháp nút mạch cấp cứu.