Biết ơn người đang truyền lửa...
Chúng tôi là nhóm con cháu các gia đình Thương binh, Liệt sỹ ở xã Hồng Quang, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định, đã từng thấm thía câu thơ nói về khí phách của các cựu chiến binh thời Bộ đội Cụ Hồ: “Khi giặc đến thì bỏ cày cầm súng / Lúc giặc tan thì bỏ súng cầm cày”. Đã lâu rồi, chúng tôi ít đọc văn thơ, nhưng gần đây lại được đọc nhiều bài văn, bài thơ của nhà báo, nhà thơ Nguyễn Hồng Vinh, thì “máu văn chương” lại thức dậy; và hình như có một “lực đẩy” nào đó, tôi mạnh dạn cầm bút viết; nhất là khi đọc những bài thơ ông viết về đề tài thương binh, liệt sỹ mà tôi coi đó là “những cung trầm tháng 7”, nén tâm hương nối dài thương nhớ - những người đã góp sức cho cây độc lập, tự do của đất nước đâm hoa kết trái...
Nhà thơ Nguyễn Hồng Vinh bồi hồi bên sông Thạch Hãn - nơi các liệt sỹ còn nằm dưới đáy sông “mãi mãi tuổi 20” |
Chúng tôi xúc động và nể trọng Nguyễn Hồng Vinh - người luôn nung nấu đề tài Thương binh, Liệt sỹ trong suốt 55 năm ông cầm bút. Ông là một nhà báo lão luyện mang trái tim thi sĩ, dù tuổi đã cao, nhưng vẫn xông xáo ra Bắc vào Nam mỗi khi tháng 7 về. Ngược lên Tây Bắc đến Mường Phăng tìm hơi ấm của Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp trên từng phên liếp sở chỉ huy; Vòng về các Nghĩa trang ở Điện Biên thắp nhang mộ liệt sỹ giữa đất trời Tây Bắc vào đông. Lại xuôi vào phương Nam ra tận đất Mũi gặp “người thương binh già ngực vẫn còn găm mảnh đạn”, nhưng vẫn tận tâm, tận lực cùng bà con khóm, ấp “vớt phù sa tôn tạo bãi bờ”.
Đọc thơ ông, chúng tôi coi đó là “Một hiện tượng Nguyễn Hồng Vinh” vì đã gần tuổi bát thập, tinh hoa phát tiết, vừa đi vừa viết, càng viết càng hay. Mùa thu này, thơ ông nở rộ trên tất cả các mặt báo, thơ hay, sâu lắng, nặng tình nước non, khắc khoải nỗi niềm nhân thế. “Gió đông thổi dọc kiếp nghèo”, “Ba anh con xa xót phận tá điền” - đó là cuộc sống thực của gia đình ông thời thực dân, phong kiến... Bao nhiêu thực tiễn được tích luỹ, chắt lọc suốt cuộc đời vui - buồn đan quyện, nay “vương hết tơ lòng” ra để ghi lại cho hậu thế. Nguyễn Hồng Vinh quả là người đa tài trên lĩnh vực văn học, nghệ thuật, báo chí, lý luận…. Chỉ riêng với đề tài thương binh, liệt sỹ, ông đã viết hơn 30 bài thơ, 15 bài bút ký, xã luận về “cung trầm tháng 7”.
“Mỗi tháng 7 về, anh tất bật lên Tây Bắc thắp nhang mộ ông / Lại xuôi vào Tây Nguyên tìm mộ cha còn nằm trong đất”. Một người con - một người cháu của 2 liệt sỹ - một người cháu đích tôn của bà mẹ Việt Nam Anh hùng vất vả gian truân. “Chưa đầy 50 xuân, tóc đã lơ thơ sương tuyết”. Tháng 7 mưa tuôn nước mắt cạn khô, vẫn trụ giữa cuộc đời giông gió.
Thi sỹ Nguyễn Hồng Vinh trở lại thăm sông Ba Lòng - nơi cùng đồng đội vượt sông vào giải phóng Quảng Trị tháng 4/1972 |
Dòng máu Việt Nam anh hùng từ ông cha truyền lại cho anh một nghị lực phi thường để anh “trụ giữa cuộc đời giông gió”, để có vườn nhà sum suê hoa trái, “mặt ao, cá quẫy dưới trăng / Lời bà con rôm rả chiếu sân/Nước chè xanh, xanh quê hương thân thiết”. Chỉ với một hoàn cảnh cụ thể của một gia đình liệt sỹ, thi sỹ đã nói lên được tất cả nỗi lòng và tình cảm của nhiều gia đình Thương binh Liệt sỹ với non sông đất nước. Hơn thế nữa, thi sỹ còn mượn cõi tâm linh để động viên, an ủi: “Chắc dưới cõi âm, cha và ông rất vui lòng/ Biết xóm thôn đẹp giàu, ấm áp yêu thương...".
Từ trước tới nay, theo chúng tôi cảm nhận, thì thơ, nhạc viết về thương binh liệt sỹ có rất nhiều, có cả những nhà thơ lớn: Hỡi các chị các anh/ Trên chiến trường ngã xuống / Máu của các chị các anh không uổng/ Sẽ xanh tươi đồng ruộng Việt Nam” (Hoan hô chiến sỹ Điện Biên - Tố Hữu) Hay là: “Chị Sáu đã hy sinh rồi/ Giọng hát vẫn còn vang dội / Vào trái tim những người đang sống / Giục đi lên không bao giờ lùi…”
Nhưng đằng sau sự trân trọng, biết ơn sự anh dũng hy sinh cao đẹp, “Để dáng đứng Việt Nam tạc vào thế kỷ”, thì chiều sâu cuộc sống các gia đình thương binh, liệt sỹ chưa được đề cập nhiều. Tôi tâm đắc khi ông viết một câu khái quát, nói hộ nỗi niềm bao người: “Ai đong dòng lệ đêm đêm”. Câu thơ ấy thật sự đã chạm vào miền xa thẳm lòng người gánh chịu nỗi đau thầm lặng nối nhau. Các gia đình thương binh, liệt sỹ cảm ơn thi sĩ đã đồng cảm, đồng vọng, đồng điệu viết câu kết bài thơ tự trái tim: “Ai ru huyền thoại Truông Bồn”.
Tác giả Nguyễn Hồng Vinh bên hàng mộ chưa biết tên ở Nghĩa trang Đường 9 (tháng 5/2022) |
Theo bước chân “Nhà báo chiến sỹ Hồng Vinh”, nhìn ông trầm tư bên dòng Thạch Hãn, mắt dõi nhìn vào chốn xa xăm nhớ “Dưới sông còn đó, bạn tôi nằm”. Ông dâng nhang ở Nghĩa trang Quảng Trị, lòng thổn thức tiếc thương các anh linh liệt sỹ, trong đó có người anh trai liệt sỹ của ông là Nguyễn Duy Lộ còn nằm trong những hàng mộ “chưa biết tên”.
Ở Nghĩa trang đường 9, bóng ông nghiêng nghiêng trên hàng hàng, lớp lớp bia mộ để kính cẩn thắp hương. Ông đến Bến Long Đại, đứng trên bờ nhìn dòng nước êm ả trôi, mà lòng quặn thắt… Thời chiến tranh, cánh lính chúng tôi gọi đùa, đây là bến “Long đầu”. Rồi ông đến dâng hương “hang 8 cô” ở Quảng Bình; về Ngã ba Đồng Lộc - “ngã ba đất nước”; và ông trở lại khu tưởng niệm Truông Bồn… để cho ra đời những vần thơ xa xót, nhưng không hề bị lụy trước những mất mát trong cuộc chiến giành và giữ độc lập, tự do.
Thời chiến tranh, trên đường ra trận, chúng tôi đã đi qua, đã sống và chiến đấu ở những địa danh lịch sử ấy. Khi ấy “nơi ta ở chỉ là nơi đất ở”. Thế rồi chiến tranh kết thúc, hoà bình về, chúng tôi lại về “cày nốt luống cày bỏ dở”. Khi nghe đài, báo, ti vi nhắc đến những địa danh ấy thì “ đất bỗng hoá tâm hồn”, máu lính bốc lên, lòng bồi hồi nhớ lại, thấy con tim rộn nhịp, nhất là khi thi sĩ dùng những hình ảnh hi sinh cao đẹp của các anh hùng, liệt sỹ để dựng nên thành những tượng đài.
Dưới ngòi bút tài hoa từng thấm máu đạn bom tuyến lửa một thời, kết hợp với tâm hồn lãng mạn của thi nhân yêu người, yêu đời, tôn vinh cái đẹp, mà trong cái đẹp nhất cuộc đời con người, theo tôi là câu thơ buốt đau nhưng rất đáng tôn vinh: “Các em hy sinh ở tuổi xuân thì”… Và vì thế, tôi như cùng ông “tìm về triền hoa mua hoàng hôn tím. Dâng nhành thơ trước mộ các em”, cùng rung lên câu đồng vọng: “ai ru huyền thoại Truông Bồn” để càng yêu, càng nhớ, càng tự hào “còn mãi Truông Bồn, nay cây xanh ngói đỏ”.
Nhà thơ Nguyễn Hồng Vinh thắp nhang trong Nhà tưởng niệm các liệt sỹ ở dòng Thạch Hãn |
Còn mãi Truông Bồn, để đất nước ta có cơ đồ và vị thế như hôm nay! Để vợ chồng son đón trăng mật ngập tràn hạnh phúc, nhưng mắt vẫn rơi lệ khi nói mình được hưởng thành quả lớn lao từ thế hệ cha ông. Nơi xưa vành đai biên giới thấm máu tiền nhân, nay lớp con cháu đã và đang giữ vững “vành đai biên giới”, thấm thía bài học để đời: “Bám rễ lòng dân / Tổ quốc trường tồn bất diệt”. Tôi đọc câu này mà cảm thấy đang văng vẳng bên tai lời Hịch của cha ông!
Xin cảm ơn Nguyễn Hồng Vinh đã “nhập cuộc” vào đời sống đất nước, đời sống mỗi gia đình Thương binh, Liệt sỹ chúng tôi để viết nên những vần thơ nói thay tình đời, tình người đẹp mãi muôn sau!