Cứu sống bệnh nhân sốc mất máu do vỡ khối u thận giai đoạn muộn
Theo lời kể của bệnh nhân và người nhà, cách vào viện khoảng 1 tuần, bệnh nhân xuất hiện các triệu chứng đau tức vùng thắt lưng và hố chậu bên phải, đau âm ỉ, không lan xuyên, không quặn thành cơn, kèm theo sốt kéo dài, nhiệt độ 37,5 - 38 độ C, sốt kèm gai rét, không rét run, đại tiểu tiện bình thường.
Thời điểm nhập viện, bệnh nhân thấy mệt mỏi nhiều, kèm hoa mắt, chóng mặt. Qua thăm khám, bác sĩ trực cấp cứu nhận định thấy bệnh nhân da niêm mạc nhợt, kèm theo tình trạng trụy tim mạch, không liên quan tới các yếu tố chấn thương.
Ảnh minh họa |
Kết hợp với các kết quả cận lâm sàng, bệnh nhân được chẩn đoán: Sốc mất máu mức độ nặng do vỡ khối u thận phải, sỏi niệu quản phải 1/3 dưới.
Với sự phối hợp của các chuyên ngành trong kíp trực, bệnh nhân đã được can thiệp thành công nút mạch động mạch thận phải, giải quyết được nguyên nhân gây sốc mất máu. Sau đó, bệnh nhân tiếp tục được điều trị tích cực tại Khoa Tiết niệu.
Qua hội chẩn, các bác sĩ Khoa Tiết niệu trên nhận định trường hợp của bệnh nhân đã được can thiệp mạch, kết hợp truyền máu, bù dịch, nhưng tình trạng cải thiện chậm.
Bệnh nhân tiếp tục phải sử dụng thuốc vận mạch, bụng chướng nhiều, tình trạng tiêu hóa kém do ảnh hưởng của khối máu tụ lớn vùng hố thận phải, đồng thời xuất hiện các rối loạn của tim mạch.
Vì vậy, chỉ định phẫu thuật của bệnh nhân được đặt ra nhằm giải quyết tình trạng cấp tính hiện tại dù bệnh lý đã ở giai đoạn muộn. Sau khi giải thích cặn kẽ về tình trạng bệnh lý, các nguy cơ có thể gặp trong và sau phẫu thuật, gia đình bệnh nhân đồng ý tiến hành phẫu thuật.
Sau phẫu thuật, bệnh nhân được hồi sức tích cực tại Khoa Hồi sức ngoại và chuyển điều trị tại Khoa Tiết niệu trên sau 4 ngày.
Tại thời điểm này, tình trạng huyết động của bệnh nhân đã ổn định, không cần sử dụng thuốc vận mạch, tình trạng chướng bụng cải thiện nhiều, đã trung tiện được.
Ung thư biểu mô đường niệu hay ung thư biểu mô đường bài xuất hệ tiết niệu vùng đài bể thận và niệu quản chiếm 1,5% trong số các trường hợp ung thư hệ tiết niệu.
Bệnh có thể được phát hiện tình cờ qua thăm khám hoặc xuất hiện các triệu chứng gợi ý: Tiểu máu là triệu chứng phổ biến nhất. Đối với ung thư tế bào thận, chiếm 12%, xếp thứ 3 trong các bệnh lý ung thư hệ tiết niệu, bệnh lý tiến triển âm thầm, thường được phát hiện tình cờ qua các biện pháp chẩn đoán hình ảnh để chẩn đoán các bệnh lý khác.
Phẫu thuật ngoại khoa là phương pháp hàng đầu và hiệu quả trong quá trình điều trị các khối u hệ tiết niệu sinh dục. Thời gian sống sau 5 năm với bệnh lý ung thư tế bào thận khi được chẩn đoán và phẫu thuật sớm là 70 - 80%.
Bác sĩ Kiều Đức Vinh, Khoa Tiết niệu trên khuyến cáo đối với bệnh nhân ung thư biểu mô đường niệu hay ung thư hệ tiết niệu nên thăm khám sức khỏe định kỳ và chủ động nhất để nâng cao hiệu quả điều trị nếu không may mắc phải các bệnh lý ác tính.
Bác sĩ cũng khuyến cáo thời gian thăm khám định kỳ là từ 6 - 12 tháng, hoặc khi xuất hiện bất kỳ triệu chứng bất thường nào liên quan đến bệnh lý đường tiết niệu: Đau tức vùng mạn sườn thắt lưng, tiểu đỏ hoặc tiểu ra máu, sốt kéo dài không rõ nguyên nhân…