Đồng Nai: Cần làm rõ những khuất tất khi thu hồi đất và bàn giao tài sản thi hành án ở huyện Long Thành
Khu đất gần 12,3ha hiện nay ông Trường vẫn đang khiếu nại
Bài liên quan
Bắt Chủ tịch và Giám đốc Công ty địa ốc Alibaba
Đồng Nai: UBND huyện Long Thành “thờ ơ” với quyền lợi chính đáng của người dân?
Chậm bồi thường khi thu hồi đất, UBND tỉnh Đồng Nai “làm ngơ” trước chỉ đạo của Phó Thủ tướng?
Có hay không việc “hoán đổi” đất để bàn giao sau đấu giá?
Theo hồ sơ của ông Nguyễn Xuân Trường (sinh năm 1955, ngụ Quận 7, TP HCM) gửi báo Tuổi trẻ Thủ đô thể hiện: Năm 1995, ông Trường trúng đấu giá tài sản phát mãi theo Quyết định số 01/QĐTM ngày 23/1/1995 của Đội THA dân sự huyện Long Thành đối với tài sản là khu đất có diện tích 7,1ha, tọa lạc tại khu Sông Buông, ấp Tân Cang, huyện Long Thành (nay thuộc TP Biên Hòa). Khu đất được bán đấu giá là tài sản của bà Lê Thị Phương Mai bị phát mãi để thi hành án.
Ngày 23/1/1995, ông Trường đã nộp số tiền trúng đấu giá để THA là 35.000.000đ (theo biên lai thu tiền số 20/BL/THA của Đội THA dân sự huyện Long Thành (người nộp tiền ghi tên Lê Thị Cúc)).
Theo quy định tài sản trên phải được giao cho ông Trường, tuy nhiên, ngày 4/9/1996, không hiểu vì lý do gì tại Đội THA dân sự huyện Long Thành, bà Mai và bà Cúc đã thực hiện thỏa thuận, thống nhất lập Hợp đồng dân sự chuộc lại tài sản đã bị phát mãi, trong đó đó có nội dung: Bà Mai giao 96 chỉ vàng 24k 9,5T cho bà Cúc để chuộc lại 8ha đất rẫy (trong đó có 7ha bị phát mãi, 1ha bán thêm) như thỏa thuận trong Biên bản hòa giải ngày 20/8/1996 tại Hội đồng hòa giải xã Phước Tân. Sau khi nhận đủ số vàng trên, bà Cúc giao trả 8ha đất cho bà Mai sử dụng.
Nội dung thỏa thuận giữa bà Mai và bà Cúc, trong khi ông Trường mới là người mua tài sản thi hành án |
Đến ngày 28/5/2011, UBND huyện Long Thành đã ký cấp GCN QSDĐ số 2271 cho bà Mai với diện tích gần 7,6ha như bản thỏa thuận trên.
Theo ý kiến của Thanh tra Sở TNMT được ghi nhận trong Báo cáo số 6653/UBND-TCD ngày 25/5/2018 của UBND TP Biên Hòa gửi UBND tỉnh Đồng Nai thể hiện, do THA không thể giao đất đã phát mãi đấu giá cho ông Trường nên ngày 26/5/1997, UBND huyện Long Thành có Quyết định số 619/QĐ.GĐGR giao đất lâm nghiệp cho ông có diện tích gần 12,3ha, thuộc khu Sông Buông, ấp Tân Cang, xã Phước Tân, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai (nay thuộc TP Biên Hoà). Phần đất này nhằm để hoán đổi phần đất 7,1ha không được THA giao trước đó.
Lập luận là vậy tuy nhiên căn cứ giao đất cho ông Trường trong Quyết định 619 trên lại ghi “Căn cứ Nghị định 02/CP ngày 15/1/1994 của Chính phủ ban hành Bản quy định về giao đất lâm nghiệp cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích lâm nghiệp và Thông tư 06/LNKL của Bộ Lâm nghiệp” và xét đề nghị của Hạt Kiểm lâm…, hoàn toàn không có nội dung thể hiện việc “hoán đổi” đất để THA.
Báo cáo số 6653/UBND-TCD ngày 25/5/2018 của UBND TP Biên Hòa gửi UBND tỉnh Đồng Nai |
Theo ông Trường cho biết, vụ việc ông được giao đất rừng sau đó đã bị đánh đồng nhằm “đánh lạc hướng” là chính quyền đã hoán đổi 7,1ha đất mà trước đó THA không giao được cho ông. "Hai vụ việc là hai mối quan hệ pháp luật và có cơ sở pháp lý khác nhau", ông Trường nói.
Riêng phần ông Trường, sau khi nhận gần 12,3 ha đất rừng trên, ông đã thực hiện trồng cây, canh tác ổn định. Đến ngày 20/3/2000, ông Trường nhận chuyển nhượng thêm của những hộ dân lân cận được 6ha đất. Lúc này, diện tích đất thực tế của ông là hơn 18ha.
Thu hồi đất trái luật?
Dù phần đất được giao đang canh tác, không có tranh chấp hay bất kỳ văn bản vi phạm nào, thế nhưng ngày 28/11/2002, UBND huyện Long Thành lại ban hành Quyết định số 2234/QĐ.CT.UBH thu hồi toàn bộ diện tích đất đã giao cho ông Trường trước đó với lý do “ông Trường không quản lý sử dụng đất từ năm 1998 đến nay”.
Quyết định thu hồi đất nêu trên bị ông Trường khiếu nại và chỉ ra rất nhiều điểm trái luật.
Ngày 2/3/2017, Sở TNMT tỉnh Đồng Nai có Báo cáo số 908 gửi UBND tỉnh này thể hiện: Do tài sản phát mãi là 7,1ha đất không thể giao cho ông Trường nên UBND huyện Long Thành đã ký Quyết định số 619 ngày 26/5/1997 giao đất (thực tế là hoán đổi diện tích đất đấu giá nói trên) với diện tích gần 12,3ha cho ông Trường. “Vì vậy đây là tài sản của ông Trường trúng đấu giá và đã thực hiện nghĩa vụ tài chính, nên UBND huyện Long Thành căn cứ quy định tại Khoản 3, Điều 26, Luật Đất đai 1993 để thu hồi đất của ông Trường là chưa phù hợp”, Báo cáo số 908 của Sở TNMT nêu rõ.
Báo cáo số 908 của Sở TNMT gửi UBND tỉnh Đồng Nai |
Không chỉ vậy, theo báo cáo trên cho biết, qua làm việc, UBND huyện Long Thành không cung cấp được các văn bản, biên bản kiểm tra hiện trạng chứng minh ông Trường không sử dụng đất từ năm 1998 theo quy định tại Khoản 3, Điều 26, Luật Đất đai 1993, đồng thời không cung cấp được các văn bản thông báo cho ông Trường biết lý do trước khi thu hồi đất là không đúng quy định tại Điều 28 Luật Đất đai 1993 nên UBND huyện Long Thành ban hành quyết định thu hồi đất của ông Trường là không thỏa đáng.
Báo cáo của đơn vị này còn chỉ rõ, Quyết định số 2234 (thu hồi đất) được ký ngày 28/11/2002 nhưng tại Điều 2 Quyết định lại nêu: “Trưởng phòng Địa chính huyện Long Thành mời Chủ tịch UBND xã Phước Tân và ông Nguyễn Xuân Trường đến cơ quan, lập biên bản, trao Quyết định này trước ngày 10/8/2002” (tức giao quyết định cho ông Trường trước khi có Quyết định hơn 3,5 tháng) là mâu thuẫn.
Từ kết quả trên, ngày 24/7/2017, UBND TP Biên Hoà đã ban hành Quyết định số 3091/QĐ-UBND huỷ bỏ Quyết định số 2234 ngày 28/11/2002 của UBND huyện Long Thành về việc thu hồi gần 12,3ha đất đã giao cho ông Trường trước đó.
Tuy nhiên lúc này, như đã nêu trên, sau khi thu hồi đất của ông Trường, UBND huyện Long Thành đã giao cho UBND xã Phước Tân tạm thời quản lý, tổ chức họp Hội đồng xét cấp GCN QSDĐ cho các hộ dân. Sau đó không lâu, UBND huyện này đã lần lượt cấp GCN (phần đất hơn 12,3 ha trên) cho 7 hộ dân khác.
Một góc khu đất gần 12,3ha trước đây UBND huyện Long Thành giao cho ông Trường đang bị người khác khai thác |
Do đó, sau khi có Quyết định số 3091/QĐ-UBND hủy bỏ Quyết định số 2234 về việc thu hồi đất của ông Trường, cho đến nay ông Trường xin cấp GCN QSDĐ phần đất trên vẫn chưa được chính quyền tỉnh Đồng Nai và TP Biên Hòa giải quyết.
Cụ thể, ngày 25/5/2018, Sở TNMT có Báo cáo số 6653/UBND-TCD gửi UBND tỉnh và kiến nghị tỉnh chỉ đạo UBND huyện Long Thành chủ trì, phối hợp với Chi cục THA dân sự huyện, Phòng TNMT và các đơn vị liên quan kiểm tra, làm rõ việc ông Trường trúng đấu giá khu đất 7,1ha và quy trình bà Mai đã thực hiện thỏa thuận, thống nhất lập hợp đồng dân sự chuộc lại tài sản bị phát mãi, cũng như việc cấp GCN QSDĐ cho bà Mai; Kiểm tra, xác minh rõ cơ sở pháp lý của việc ban hành Quyết định số 619 năm 1997 của UBND huyện Long Thành về việc giao gần 12,3ha đất rừng cho ông Trường; Xác định quy trình, xét duyệt và cấp GCN QSDĐ cho các hộ gia đình, cá nhân tại phần đất gần 12,3ha có đúng quy định pháp luật hay chưa.
Văn bản của Cục Giải quyết khiếu nại tố cáo và Thanh tra khu vực 3 (Thanh tra Chính phủ) gửi Chủ tịch UBND tỉnh Đồng Nai để chỉ đạo giải quyết theo thẩm quyền đối với khiếu nại của ông Trường |
Tiếp đó ngày 23/8/2018, UBND tỉnh Đồng Nai có Văn bản số 8964 gửi Chủ tịch UBND huyện Long Thành yêu cầu UBND huyện này chủ trì, phối hợp với Chi cục THA dân sự huyện và đơn vị liên quan kiểm tra, làm rõ các nội dung theo kiến nghị của UBND TP Biên Hòa tại văn bản Báo cáo số 6653 trên, gửi UBND TP Biên Hòa kiểm tra, xử lý đơn của ông Trường theo quy định của Luật Đất đai 2013. Thời hạn UBND huyện Long Thành báo cáo UBND tỉnh, UBND TP Biên Hòa trước ngày 20/9/2018.
UBND tỉnh cũng giao Sở TNMT phối hợp với UBND TP Biên Hòa kiểm tra hồ sơ, xử lý tạm ngưng công tác cấp GCN QSDĐ cũng như chuyển nhượng QSDĐ phần đất ông Trường đang khiếu nại theo quy định.
Văn bản chỉ đạo là vậy, tuy nhiên theo ông Trường cho biết, đến nay ông vẫn chưa nhận được kết quả xử lý, giải quyết từ các cơ quan chức năng tỉnh Đồng Nai.
Báo Tuổi trẻ Thủ đô sẽ tiếp tục thông tin.