Giảm thiểu tác động bất lợi của biến đổi khí hậu tới phát triển kinh tế
Việt Nam đang phải đối mặt với nguy cơ xâm nhập mặn, hạn hán, sạt lở bờ biển... gây thiệt hại về kinh tế và hủy diệt hệ sinh thái
Bài liên quan
Nâng cao vai trò công tác xã hội thích ứng với biến đổi khí hậu
Chủ động phòng chống thiên tai bằng khoa học công nghệ
Thúc đẩy liên kết chuỗi và ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp
Phát triển nông nghiệp an toàn theo hướng ứng dụng công nghệ cao
Gia tăng hạn hán, xâm nhập mặn
Cùng với nhiệt độ gia tăng, BĐKH đã phá vỡ quy luật tự nhiên của các mùa, gia tăng tần suất và cường độ của các hiện tượng thời tiết, khí hậu cực đoan như nắng nóng, hạn hán và lũ lụt. Thế giới đã chứng kiến mỗi thập kỷ sau lại nóng hơn thập kỷ trước, cụ thể thời kỳ 2011 - 2015, đây là giai đoạn nóng nhất theo số liệu quan trắc được và năm 2015 với tác động của hiện tượng El Nino, đã trở thành năm nóng nhất trong lịch sử, kể từ khi có quan trắc khí tượng thủy văn.
Bên cạnh đó, hạn hán đã dẫn tới tình trạng xâm nhập mặn, riêng vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) diện tích đất canh tác thường xuyên bị xâm nhập mặn là 676.000ha, chiếm khoảng 40% trong tổng số 1,7 triệu ha đất nông nghiệp. Vào mùa khô, diện tích đất ở ĐBSCL bị tác động của thuỷ triều gây xâm nhập mặn có thể chiếm đến gần 1 triệu ha.
Hạn hán và xâm nhập mặn tại các tỉnh ĐBSCL trong năm 2015 - 2016 là do ảnh hưởng của El Nino mạnh và kéo dài liên tục từ năm 2014 (kéo dài hơn và mạnh tương đương với El Nino năm 1997 - 1998). Đáng chú ý, năm 2015 mùa mưa ở ĐBSCL kết thúc sớm, dẫn đến tổng lượng mưa thiếu hụt nhiều so với trung bình nhiều năm. Bên cạnh đó, tổng lượng dòng chảy sông Mê Công về ĐBSCL cũng thiếu hụt so với trung bình nhiều năm, dòng chảy từ thượng lưu về ĐBSCL hạn chế và mực nước sông thấp dẫn đến xâm nhập mặn, với độ mặn cao lấn sâu vào nội địa. Điển hình như những tháng đầu năm 2016, lượng dòng chảy về sông Cửu Long giảm mạnh dẫn đến hầu hết các cửa sông mặn xâm nhập sâu từ 50 km đến 70 km. Trong đó sông Vàm Cỏ xâm nhập mặn sâu hơn 90 km (sâu hơn trung bình nhiều năm cùng kỳ, khoảng từ 15 km đến 25 km).
Ngoài ra, do BĐKH làm nước biển dâng cao hơn, kết hợp với triều cường và ảnh hưởng của gió mùa đông bắc mạnh trên Biển Đông khiến cho nước mặn đi sâu hơn vào các cửa sông. Độ mặn từ đầu năm 2016 đến nay, hầu hết tại các trạm đo được luôn ở mức cao hơn cùng kỳ năm 2015 và trung bình nhiều năm.
Đáng lo ngại hơn, có những nơi nằm sâu trong đất liền trước đây gần như không bị ảnh hưởng bởi mặn như tỉnh Vĩnh Long, thì từ đầu tháng 2/2016 cũng đã có những số liệu báo cáo về mặn, trong đó có những nơi trong tỉnh độ mặn lên tới 9g/lít. Đây được coi là những nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng hạn hán và xâm nhập mặn tại các tỉnh ĐBSCL hiện nay.
Nói về tình trạng xâm nhập mặn, các chuyên gia cho biết: Diễn biến mặn trong khu vực khá phức tạp. Độ mặn lớn nhất thường xuất hiện chủ yếu vào tháng 4 hoặc tháng 5 do ảnh hưởng của thủy triều ở biển Đông, biển Tây hoặc cả hai. Ngoài ra, do lưu lượng dòng chảy từ thượng nguồn sông Mê Công đổ về ít cũng là nhân tố chính ảnh hưởng đến tình hình xâm nhập mặn ở vùng cửa sông ven biển của ĐBSCL, trong đó thủy triều là nhân tố động lực, mang nước biển kèm theo độ mặn đi sâu vào nội đồng, trong khi lượng nước từ thượng lưu đổ về còn hạn chế.
Bên cạnh đó, lượng mưa giảm, lượng nước bị bốc hơi cao cũng là những yếu tố ảnh hưởng đến quá trình xâm nhập mặn. Ngoài những yếu tố tự nhiên thì yếu tố con người cũng góp phần không nhỏ gây ra xâm nhập mặn như khai thác và sử dụng nước ngầm quá mức để đáp ứng nhu cầu phát triển, sản xuất và đời sống ở địa phương, thay đổi mục đích sử dụng đất cũng có ảnh hưởng nhất định đến tình hình xâm nhập mặn.
Điều chỉnh các giải pháp phù hợp và hiệu quả
Xâm nhập mặn gây ra những hậu quả hết sức nặng nề, ảnh hưởng đến đời sống sinh hoạt, sản xuất của cả vùng ĐBSCL. Đặc biệt, cuối năm 2015 và những tháng đầu năm 2016, diễn biến xâm nhập mặn tại ĐBSCL được đánh giá nặng nề nhất trong 100 năm qua. Ngay từ tháng 2, độ mặn đã duy trì ở mức cao và nghiêm trọng. Trên sông Tiền và sông Hậu, độ mặn là trên 45‰, xâm nhập sâu tới 70 km tính từ cửa sông, thậm chí có nơi lên đến 85km (trong khi theo Trung tâm phòng tránh và giảm nhẹ thiên tai thì độ mặn bằng 4‰ đã được coi là bị xâm nhập mặn).
Tính từ cuối năm 2015 đến nay, cả 13 địa phương thuộc ĐBSCL đều đã bị nhiễm mặn, trong đó đã có 11/13 tỉnh/thành công bố tình trạng thiên tai hạn hán, xâm nhập mặn là: Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, Kiên Giang, Cần Thơ, Hậu Giang, Ninh Thuận.
Mặc dù đã có một số giải pháp được áp dụng để kiểm soát xâm nhập mặn ở địa phương như: Xây dựng hệ thống kênh rạch dẫn nước ở ĐBSCL (khoảng 5000km kênh được đào khắp các tỉnh, 45 công trình thủy lợi với mục đích giảm thiểu lũ lụt và ngăn mặn); Các công trình ngăn mặn lớn tại ĐBSCL gồm hệ thống thủy nông Quản Lộ - Phụng Hiệp, hệ thống thủy lợi ngọt hóa và ngăn mặn ở tỉnh Bến Tre, cống đập Ba Lai và hệ thống đê biển cho toàn bộ hệ thống ven biển ĐBSCL, tuy nhiên, tình hình xâm nhập mặn vẫn diễn biến phức tạp.
Do ảnh hưởng của xâm nhập mặn, từ cuối năm 2015 đến nay, nhiều diện tích cây trồng đã bị ảnh hưởng. Ở vụ Mùa và Thu Đông năm 2015, có khoảng 90.000 ha lúa bị ảnh hưởng đến năng suất, trong đó thiệt hại nặng khoảng 50.000 ha (Kiên Giang 34.000 ha, Sóc Trăng 6.300 ha, Bạc Liêu 5.800 ha,...). Vụ Đông Xuân 2015 - 2016, có 104.000 ha lúa bị ảnh hưởng nặng đến năng suất (chiếm 11% diện tích gieo trồng 8 tỉnh ven biểnđang bị ảnh hưởng nặng của xâm nhập mặn). Dự kiến, trong thời gian tới, diện tích bị ảnh hưởng khoảng 340.000 ha (chiếm 35,5% diện tích 8 tỉnh ven biển).
Tác động của BĐKH và nước biển dâng luôn đi kèm và làm trầm trọng hóa tác động của thay đổi dòng chảy thượng nguồn, của các hoạt động phát triển thượng nguồn và xuyên biên giới vì vậy cần xem xét vấn đề tổng thể, có tính đến các kịch bản phát triển kinh tế xã hội và thay đổi môi trường trong tương lai để lồng ghép với BĐKH.
BĐKH sẽ có những tác động tiềm tàng đến tài nguyên nước vùng ĐBSCL, do đó ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế - xã hội của vùng. Để giảm thiểu các tác động bất lợi của BĐKH vùng ĐBSCL, cần tiếp tục nghiên cứu, triển khai các giải pháp chủ động thích ứng với BĐKH bao gồm các giải pháp công trình và phi công trình. Bên cạnh đó, xây dựng quy hoạch tổng thể lưu vực sông mang tính liên vùng, liên ngành là rất cần thiết để có thể huy động tất cả các nguồn nhân lực trong ứng phó hiệu quả với BĐKH của vùng.
* Đây là bài viết tuyên truyền bảo vệ môi trường của Bộ Thông tin và Truyền thông năm 2019