Nghi phạm cướp ngân hàng BIDV chi nhánh Phúc Thọ sẽ bị xử lý nào?
Vào khoảng 11h55 ngày 15/3, Phạm Anh Hào (SN 1978, trú phường Tương Mai, Hoàng Mai, Hà Nội) mang 1 khẩu súng ngắn (dạng súng bật lửa và 1 khối bên ngoài bọc bằng băng dính đen) vào phòng giao dịch ngân hàng BIDV chi nhánh tại ngã tư Gạch, huyện Phúc Thọ (TP Hà Nội) cướp tài sản.
Vừa bước vào, hắn ta để khối bọc băng dính đen trước cửa ra vào của ngân hàng, tay phải cầm súng yêu cầu nhân viên ngân hàng cho tiền vào túi. Lúc này, tên cướp hét lớn đe doạ, yêu cầu nhân viên nhanh thực hiện theo yêu cầu của hắn, nếu không “mìn nổ và bắn chết nhân viên”. Trong lúc đó, nhân viên đã đưa 76 triệu đồng cho Hào, đồng thời ấn chuông báo động.
Nghi can cướp ngân hàng bị công an bắt giữ ngay tại chỗ |
Sau khi nhận tiền, nam nghi phạm bỏ chạy ra ngoài cửa thì bị Công an huyện Phúc Thọ và bảo vệ, nhân viên ngân hàng bắt tại trận thu giữ toàn bộ tang vật.
Trước khi gây án, y đã khảo sát địa điểm rồi mới ra tay. Lý do khiến đối tượng này cướp ngân hàng do đang nợ một khoản tiền lớn không có khả năng chi trả nên túng quẫn.
Được biết, Hào đã có 1 tiền án về tội trộm cắp tài sản và làm nghề lái xe taxi.
Trao đổi với PV báo Tuổi trẻ Thủ đô về vụ việc trên, luật sư Nguyễn Anh Thơm (Trưởng văn phòng Luật sư Nguyễn Anh, Đoàn Luật sư TP Hà Nội) cho biết: Hành vi của nghi phạm là rất táo tợn, liều lĩnh, coi thường pháp luật. Chỉ vì không có tiền tiêu xài, nghi phạm đã lên kế hoạch, chuẩn bị công cụ phương tiện phạm tội là khẩu súng ngắn (dạng súng bật lửa) và 1 khối bên ngoài bọc băng dính đen (giống như mìn) xông vào Chi nhánh Ngân hàng đe dọa các nhân viên giao dịch để chiếm đoạt đoạt tài sản.
Nhân viên Ngân hàng đưa cho nghi phạm 76 triệu đồng và cũng đồng thời ấn chuông báo động nên khi nghi phạm chạy ra ngoài thì đã bị Công an huyện Phúc Thọ và bảo vệ, nhân viên ngân hàng bắt tại trận thu giữ toàn bộ tang vật.
Xét hành vi phạm tội của nghi phạm sử dụng khẩu súng ngắn (dạng súng bật lửa) và 1 khối bên ngoài bọc băng dính đen (giống như mìn) đe dọa, uy hiếp các nhân viên giao dịch nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản đã cấu thành tội Cướp tài sản theo quy định tại Điều 168 Bộ luật Hình sự.
Để có căn cứ xử lý về tội Cướp tài sản cần làm rõ ý thức chủ quan và hành vi khách quan của nghi phạm khi chiếm đoạt tài sản để xử lý tương ứng theo quy định tại Điều 168 BLHS.
Nếu nghi phạm đe dọa yêu cầu các nhân viên tại quầy giao dịch đưa tiền (không nói số tiền cụ thể) mà các Nhân viên đưa 76 triệu hoặc tại thời điểm đó quầy giao dịch chỉ có 76 triệu thì nghi phạm sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự theo điểm đ, Khoản 2 Điều 168 BLHS (khung hình phạt tù từ 7 năm đến 15 năm).
Luật sư Nguyễn Anh Thơm nêu quan điểm xử lý đối tượng cướp ngân hàng BIDV chi nhánh Phúc Thọ |
Trường hợp, nghi phạm đe dọa yêu cầu các Nhân viên đưa hết tiền tại quầy giao dịch thì nghi phạm sẽ phải chịu trách nhiệm nhằm chiếm đoạt toàn bộ số tiền hiện có tại thời điểm phạm tội sau khi kiểm đếm. Nếu quầy giao dịch có số tiền từ 500 triệu đồng trở lên thì nghi phạm sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự theo điểm a, Khoản 4 Điều 168 BLHS với khung hình phạt tù từ 18 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân. Mặc dù các Nhân viên giao dịch đã đưa cho nghi phạm 76 triệu thì nghi phạm vẫn phải chịu trách chung về tổng số tiền tại quầy giao dịch.
Tội cướp tài sản có cấu thành hình thức. Tội phạm hoàn thành kể từ khi có hành vi dùng vũ lực, de dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản. Việc chiếm đoạt được tài sản hay chưa không phải là yếu tố định tội danh Cướp tài sản. Do đó, việc nghi phạm bị bắt giữ và ngân hàng không bị thiệt hại gì về tài sản thì nghi phạm vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự về tội Cướp tài sản theo Điều 168 BLHS là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.
Điều 168. Tội cướp tài sản1. Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ 3 năm đến 10 năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 7 năm đến 15 năm: a) Có tổ chức; b) Có tính chất chuyên nghiệp; c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30%; d) Sử dụng vũ khí, phương tiện hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác; đ) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50 triệu đồng đến dưới 200 triệu đồng; e) Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu hoặc người không có khả năng tự vệ; g) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội; h) Tái phạm nguy hiểm. 3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm: a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng; b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%; c) Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh. 4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 18 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân: a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500 triệu đồng trở lên; b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 1 người mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 2 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 31% trở lên; c) Làm chết người; d) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp. 5. Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 1 năm đến 5 năm. 6. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 100 triệu đồng, phạt quản chế, cấm cư trú từ 1 năm đến 5 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản |