Bài 1: Văn hóa “cứng”, văn hóa “mềm”
Thức tỉnh trách nhiệm, tôn vinh văn hóa giao thông qua tiếng cười sâu sắc và thấm thía |
Qua lần đại dịch này, nhiều người mới thực sự nhận ra văn hóa ứng xử tưởng chừng là những cái rất vô hình nhưng thực chất nó rất hiện hữu, có lợi cho bản thân mình và những người xung quanh.
Những thứ “auto” thành nề nếp
Đeo khẩu trang, rửa tay xà phòng, giữ khoảng cách xưa kia chỉ thuộc phạm vi cá nhân, ai nấy thích thì làm, không thích thì thôi, nay bỗng trở thành bắt buộc và người Hà Nội răm rắp thực hiện để không chỉ vì bản thân mình mà còn vì cộng đồng.
Đeo khẩu trang trở thành việc làm bắt buộc và hữu hiệu cho công tác phòng, chống dịch |
Đầu tiên phải kể đến việc đeo khẩu trang. Chục năm về trước, thường là chỉ phụ nữ mới đeo khẩu trang. Họ có nhu cầu giữ da, bảo vệ khuôn mặt khỏi nắng, gió, bụi. Chiếc khẩu trang còn kiêm một nhiệm vụ khá “tế nhị” nữa, đó là “ngụy trang” cho gương mặt cho ai đó không muốn “xuất đầu lộ diện” ngoài đường, tránh bị trêu chọc, gây khó dễ vì xinh đẹp, hấp dẫn nơi công cộng.
Với những bà những mẹ tùy tiện, ăn mặc cẩu thả, nhất là khi mùa hè nóng bức, thường chỉ khoác tạm chiếc áo chống nắng ra ngoài bộ quần áo ngủ nhàu nhĩ để đi chợ, đón con, mua sắm thì chiếc khẩu trang lại càng tiện lợi. “Không ai biết mình là ai, có gì mà phải ngại”, họ lý sự cùn như vậy. Khẩu trang khi đó đã trở thành “tấm lá chắn” cho sự xấu hổ.
Khi ấy, nếu có ông đàn ông nào đeo khẩu trang thường sẽ bị nhìn với ánh mắt châm biếm. “Đàn ông gì mà kín mít ra, như đàn bà”, người ta bảo vậy.
Vài năm trở lại đây, khi tình hình ô nhiễm môi trường có nhiều điều đáng ngại, bụi mịn “tung hoành” khắp các tầng không khí, lo ngại cho sức khỏe, cánh đàn ông cũng đã mạnh dạn đeo khẩu trang hơn. Cho đến khi dịch Covid-19 bùng phát, với “nền tảng” văn hóa khẩu trang từ trước đó, người Hà Nội cũng như cả nước Việt Nam nhanh chóng “vào cuộc”.
Những trường hợp không đeo khẩu trang bị cơ quan chức năng xử lý nghiêm |
Khi các nước Châu Âu còn tranh cãi nhau có nên đeo khẩu trang không, kì thị những người đeo khẩu trang thì tại Việt Nam, đây đã là “vật bất ly thân”. Sự thực đã chứng minh tác dụng của chiếc khẩu trang nhỏ bé trong công cuộc phòng, chống dịch Covid-19. Từ việc khuyến cáo, đeo khẩu trang đã trở thành bắt buộc, nếu không thực hiện bị phạt nặng nên người dân ý thức chấp hành cao. Đặc biệt, với thành phố đông dân, năng động như Hà Nội, mật độ dân số cao, việc tiếp xúc với người khác là thường xuyên, liên tục thì việc đeo khẩu trang lại càng phải thực hiện nghiêm.
Tiếp đến là khử khuẩn. “Vũ điệu rửa tay”, những bài hát, MV đi vào đời sống càng cho thấy việc rửa tay thường xuyên không chỉ giữ thói quen vệ sinh, bảo vệ sức khỏe của mỗi người mà còn giúp phòng, chống dịch được hiệu quả. Trong khi đó, giữ khoảng cách cũng là một điều hết sức đáng bàn.
Dù là thành phố lớn, nếp sống “đèn nhà ai nhà nấy rạng” dần khiến một bộ phận người Hà Nội trở nên lạnh lùng, xa cách nhau, mất đi tình hàng xóm láng giềng song văn hóa làng xã vẫn ăn sâu bám rễ trong bản tính mỗi người khiến chúng ta thường ít giữ được khoảng cách với nhau. “Khoảng cách” ở đây không chỉ là cự li tiếp xúc mà còn là sự can thiệp sâu vào đời sống cá nhân, riêng tư của nhau.
Sau mùa dịch Covid-19, ngoài việc giữ khoảng cách 2m như đúng khuyến cáo của Bộ Y tế, chắc chắn, người Hà Nội còn có một khái niệm mới về khoảng cách. Đó là lùi xa một cự li đủ để không tiếp xúc gần, không làm phiền đến nhau nhưng vẫn đủ ấm áp, sẻ chia chứ không phải “xa mặt cách lòng” như mặt trái của đô thị.
Điều bắt buộc để giữ an toàn
Có sống trong những ngày như thế này ai ai cũng đều thấy rằng ngày bình thường như trước kia thật quý giá vô cùng. Càng đi qua những ngày giãn cách, cách ly xã hội mới càng thấy cần phải chấp hành nghiêm quy định để cuộc sống sớm bình yên trở lại như trước kia.
Để góp phần phòng, chống dịch tốt hơn, người dân đã có ý thức khai báo y tế nghiêm túc |
Chị Thu Dung rất thích lang thang, la cà khắp các góc phố, con đường, quán cà phê Hà Nội để chìm đắm vào đời sống phố phường. Do đó, chị khá “chồn chân” khi những đợt dịch bùng phát phải hạn chế tụ tập.
“Mình là người ham vui mà Hà Nội thì bốn mùa đều có cái đẹp riêng. Trừ mùa hè nóng bức, mùa thu thì đẹp nổi tiếng rồi, mùa đông rét mướt mình thích ngồi bên tách cà phê ấm chuyện trò cùng bạn bè. Còn mùa xuân cây cối đâm chồi nảy lộc, hoa ban, hoa sưa say đắm lòng người thế này, không đi chụp ảnh cũng tiếc lắm. Nếu chỉ vì nhu cầu cá nhân mà cứ bất chấp, tụ tập đông người thì không được. Mình cố gắng hạn chế bản thân để một ngày không xa, chúng ta lại được tận hưởng cuộc sống theo cách như trước kia”, chị Dung tâm sự.
Ngay cả chúng ta, ai cũng có nhu cầu gặp gỡ bạn bè, làm ăn, du lịch, hội họp đông vui nhưng thực hiện nghiêm chỉ đạo của các cấp lãnh đạo, khuyến cáo của Bộ Y tế, Hà Nội có những thời điểm bắt buộc đã thực hiện rất nghiêm túc. Không còn phố đi bộ Hồ Gươm, không còn những hình ảnh quen thuộc những nhóm người tập thể dục, nhảy múa theo nhạc trong các công viên, quảng trường, nơi công cộng...
Các cuộc hội họp cũng chuyển dần sang trực tuyến, vừa tiết kiệm vừa đảm bảo an toàn phòng chống dịch. Điều đó cho thấy, chấp hành pháp luật, nhanh chóng thích nghi là phẩm chất, đặc tính của người Hà Nội trong thời hiện đại.
Một điều vô cùng quan trọng, đó là hành vi khai báo y tế. Khai báo y tế trung thực là căn cứ quan trọng cho các ngành chức năng truy vết, khoanh vùng, dập dịch. Ngay từ những ngày đầu, Hà Nội đã thực hiện rất nghiêm túc việc này.
Thực tế cho thấy, chỉ cần một cá nhân không có ý thức là cả thành phố chịu không ít sóng gió. Trường hợp bệnh nhân số 17 cho chúng ta một bài học đắt giá. Đó là điển hình đáng lên án cho việc phải chịu trách nhiệm trước cộng đồng về sự trung thực của mình.
Rất may mắn, sau đợt bùng phát ấy, bằng mọi biện pháp quyết liệt, cơ quan chức năng đã nhanh chóng khoanh vùng, dập dịch thành công tại Hà Nội. Còn mỗi người dân nơi đây đều lấy đó là bài học để tự răn đe mình, tự có trách nhiệm với việc khai báo không để hậu quả nghiêm trọng xảy ra.
Rút kinh nghiệm từ mùa dịch năm trước, năm nay, Hà Nội triển khai quyết liệt việc khai báo y tế. Chị Minh là người có sức khỏe yếu, thường xuyên phải qua lại bệnh viện khám bệnh. Có lúc để khám được dạ dày, chị phải chờ rất lâu ở khu vực khai báo y tế phía bên ngoài bệnh viện.
“Không vì thế mà mình sốt ruột. Có những hôm bị ho và chắc chắn mình không tiếp xúc với người bị bệnh, nếu không khai báo thì được vào khám dạ dày ngay nhưng mình vẫn trung thực khai báo y tế. Sau đó, mình phải qua phòng khám hô hấp rồi mới được vào khám bệnh chính. Dù mất thêm thời gian nhưng mình vẫn nghiêm túc chấp hành. Mình nghĩ, mọi người đều nên thế, đừng để “cái sảy nảy cái ung” như nhiều trường hợp khai báo không trung thực khác”, chị Minh chia sẻ.
(Còn nữa)