Bài 66: Sống lại nét đẹp nón làng Chuông
>> Xây dựng người Hà Nội thanh lịch văn minh:
* Bài 60: Phố phường thắm sắc hương xuân
* Bài 61: Độc đáo tò he
* Bài 62: Hồn nhiên “tra tấn” nhau bằng âm thanh
* Bài 63: Nếp nhà, nết người
* Bài 64: Người khơi dậy những giá trị văn hóa
Nghệ nhân Phạm Trần Canh tỉ mẩn đan nón.
Làng Chuông là một ngôi làng nhỏ có từ lâu đời, nằm bên dòng sông Đáy hiền hòa. Làng có nghề làm nón truyền thống đã nhiều thế kỉ. Xưa kia, nón làng Chuông là lễ vật dâng lên cho các hoàng hậu, công chúa trong cung, cũng là món trang sức được các bà, các chị ưa chuộng. Những cô gái xứ Bắc Kì làm duyên làm dáng trong những dịp hội hè bằng những chiếc nón quai thao thơ mộng.
Chiến tranh kéo dài làm xóa nhòa trong trí nhớ mọi người về cách làm nón quai thao tinh xảo một thời. Người dân làng Chuông lúc đó, nhiều người thợ lành nghề làm nón đã mất vì bom đạn hoặc li tán không kịp truyền lại nghề cho con cháu. Do nhu cầu của thị trường thay đổi, dân làng cũng chỉ duy trì cách làm nón thông thường. Từ đó, chẳng ai còn biết cách làm nón cổ truyền ra sao nữa.
Nghệ nhân Phạm Trần Canh kể lại, khi còn để chỏm, ông đã biết đan nón từ bà nội, cha mẹ ông đã sống bằng nghề đan nón. Hầu hết trẻ con trong làng cũng đều biết đan nón, nhìn ông bà làm, cha mẹ làm, con cháu làm theo. Năm 16 tuổi, ông Canh tham gia Vệ quốc đoàn, làm liên lạc cho Trung đội 27, Tiểu đoàn Đống Đa.
Năm 1954, với thương tật 2/4, ông Canh trở về quê cùng người vợ gốc Nghệ An. Trong làng, chẳng còn ai biết làm nón cổ, ông xót xa khi chứng kiến nét đẹp của quê hương đang dần mai một. Vậy là ý chí không ngại gian khổ của "anh Bộ đội Cụ Hồ" đã thôi thúc ông khôi phục tinh hoa làng nghề. Ông bắt đầu cuộc hành trình làm "sống lại" chiếc nón cổ quê mình. Dù cơ thể mang thương tật vẫn hành hạ ông mỗi khi trái nắng trở trời, ông vẫn gắng rong ruổi khắp chốn, đến các vùng Bắc Ninh, Hưng Yên, Thái Bình...
“Một lần tôi may mắn mua được một chiếc nón quai thao cổ, đem về nhà tháo tung nó ra, mày mò lại từ đầu. Từ cách xếp nan tre như thế nào, lá cọ phải đặt ra sao cho thẳng và đẹp… đều ghi nhớ một cách cẩn thận. Làm được chiếc nón đầu tiên này, tôi vui lắm. Cuối cùng thì cũng tìm lại được nghề làm nón quai thao xưa của ông cha”, ông Canh chia sẻ.
Ông cụ nay đã 84 tuổi nhưng đôi mắt vẫn còn tinh anh, vẫn tự xỏ kim, khâu nón mà chẳng cần đến đôi kính lão giúp sức. Nguyên liệu làm nón chỉ có ba thứ chính là lá cọ, tre nứa làm khung và sợi cước nilon, ngày xưa khi chưa có cước, các cụ khâu bằng sợi móc lột từ cây giang. Làm nón quai thao có 6 công đoạn, đặc biệt công đoạn làm lá rất công phu gọi là “nuột”. Cây cọ ở Phú Thọ mỗi tháng chỉ có một cái búp xanh biếc, cắt phơi 3 nắng mùa hè sẽ chuyển thành màu trắng. Sau đó cho vào hun trong lò sấy đốt diêm huỳnh cho lá trắng mỏng và trong hơn, rồi mang ra đốt lưỡi cày gang lên, ở dưới đốt lửa, ở trên dùng một bọc giẻ là từng lá cho phẳng. Đây là công đoạn khó nhất, nếu làm vụng lá sẽ cháy, không trắng và cái nón mất giá trị.
Công đoạn hai, cho vòng vào khuôn: “vốt” vòng. Công đoạn ba dùng lá lợp lên thành nón. Công đoạn bốn là khâu thắt nón. Công đoạn năm là khi nón khâu xong đổ ra khuôn là công đoạn “nức cạp” và cuối cùng là trang trí nón.
Ở cái tuổi này, người ta đã có thể bỏ gánh nặng cuộc sống mà vui vầy cùng con cháu lúc tuổi già, nhưng cụ vẫn còn nhiều trăn trở vì nghề nón cổ của làng đang dần bị mai một. Năm người con của cụ, người theo nghề giáo, người làm sửa xe… cũng chẳng ai lấy nón quai thao làm cái nghiệp của đời mình.
Sợ nón quai thao lại thất truyền một lần nữa, ông Canh mở lớp dạy làm nón miễn phí cho người dân quanh vùng. Không phân biệt nam nữ, già trẻ, chỉ cần có một tấm lòng yêu nghề, muốn giữ gìn và phát huy nét đẹp truyền thống là ông đều chỉ bảo tận tình. Tính đến nay cũng đã có hàng trăm người theo học. Trong xã có tới 75% số hộ gia đình quay về làm nghề nón. Nhờ có nghề phụ nên cuộc sống của người dân nơi đây được nâng lên rõ rệt.
Người làng Chuông còn làm những chiếc nón đủ các kích cỡ làm quà lưu niệm, phục vụ nhu cầu của khách quốc tế. Mấy năm gần đây, làng đã phát triển thêm dịch vụ du lịch làng nghề nhằm tăng cường quảng bá chiếc nón truyền thống và tạo công ăn việc làm và tăng thêm thu nhập cho người dân. Khách đến làng không chỉ để mua nón, chụp ảnh mà còn rất nhiều người đến tham quan, muốn tận mắt chứng kiến công đoạn làm nón của làng nghề trên đất Thủ đô.
(còn nữa)