Chuyện của gia đình 4 đời cãi lại “lời nguyền” của Hà bá
|
Đi qua đoạn sông Đáy chảy qua thôn Hà Đoạn, Hương Sơn, Mỹ Đức, Hà Nội, tôi được nghe câu chuyện về gia đình ông Đào Văn Bộ làm nghề vớt xác chết trôi sông. Công việc ấy đã “vận” vào gia đình ông từ thời ông nội như một nghề “gia truyền”.
Hiện nay con trai ông là anh Đào Văn Đức cũng nối nghiệp cha để cãi lại “lời nguyền” Hà Bá. Bốn thế hệ cứu người với cái tâm, họ không có ý định giải nghệ nhưng lại mong "thất nghiệp" để những dòng sông vẫn chảy hiền hòa mà không phải ôm vào lòng những phận người mang mối hận đời ai oán.
Nửa đời mưu sinh, nửa đời vớt xác
Theo chỉ dẫn của người dân, chúng tôi tìm đến gia đình ông Đào Văn Bộ. Vừa trở về sau chuyến “nhổ neo” đi bắt cua bắt hến, ông Bộ đón chúng tôi trong căn nhà ngói đơn sơ bên dòng sông Đáy bằng nụ cười thân thiện: “4 thế hệ, từ đời bố cho tới đời cháu củaa tôi đã sống ở đây bằng nghề đánh bắt thủy sản trên sông. Những con hến, con trai… đã quá quen mặt chúng tôi rồi. Nhớ nghề nên lâu lâu lại làm một chuyến”.
Rót chén trà nhạt mời khách, vợ ông, bà Nguyễn Thị Sáu thêm vào câu chuyện bằng những vất vả, lo toan trên con đường mưu sinh quanh bến sông. Lấy nhau vì cùng cảnh nghèo khổ khi gắn đời mình với chiếc thuyền, đêm tân hôn hạnh phúc vợ chồng ông bà cũng phải nằm trên manh chiếc rách được lót thêm vài chiếc lá chuối. Rồi 9 đứa con lần lượt ra đời khiến cảnh nhà càng thêm túng. Bữa khoai bữa sắn, vậy mà nhiều hôm ông bà vẫn phải nhịn đói chèo thuyền để các con có được bữa no.
“Chỉ bữa cơm thì đôi chân chúng tôi mới được khô ráo. Ăn xong lại chèo thuyền, quăng chài đánh cá để đổi gạo cho các con ăn. Tôi sinh xong hôm trước, hôm sau đi làm ngay. Một cái võng treo trên thuyền, chân chèo thì tay kéo rồi lại đổi chân kéo tay chèo”, bà Sáu nhìn ông rồi cũng cười vang khi nhắc lại câu chuyện của nhiều năm trước.
Vất vả là thế nhưng hễ có ai gọi đi vớt xác người trôi sông là ông bà lại tất tả “lên đường”. Công việc ấy, thói quen ấy đã gắn với họ già nửa cuộc đời, không kể trời nắng hay mưa, sớm trưa hay chiều tối. Vợ chồng ông Bộ còn được mọi người ở đây ca ngợi là “mát tay”. Bởi lẽ, nhiều lần không ít đội thợ lặn đã phải bỏ cuộc nhưng vợ chồng ông Bộ lại tìm thấy xác người chết đuối chỉ sau ít giờ đồng hồ.
Nhấp một ngụm trà, ông Bộ kể về cái duyên với nghề “gia truyền” của gia đình và cái duyên với những “mảnh đời trôi sông” của chính mình: “Một lần trong làng có người bị đắm thuyền nên chết đuối, ông nội tôi đã lặn xuống sông tìm vớt xác. Phải 2 ngày sau ông mới tìm thấy và đưa người xấu số lên bờ. Cũng từ đó, hễ ở đâu có người chết đuối mọi người lại tìm gọi ông Cung. Tôi cũng nhiều lần đi theo trong những lần ông đi vớt xác. Vốn tính gan lì, dạn dĩ nhưng tôi cũng không tránh khỏi sự sợ hãi khi lần đầu tiên nhìn thấy xác chết tím tái, trương phình khi vừa được trục vớt lên. Nhưng nhìn nhiều rồi cũng quen. Sau này tôi còn trực tiếp tiếp xúc với những xác chết như thế”, ông Bộ nhớ lại.
Công việc vớt xác sau đó được ông nội truyền lại cho cụ thân sinh ra ông Bộ (cụ Đào Văn Chế), rồi đến đời ông, con ông. Trên con sông Đáy, sông Nhuệ đã có không biết bao nhiêu xác người chết đuối được ba cha con, ông cháu thương cảm vớt lên. Ông Bộ không nhớ hết mình đã phải thay bao nhiêu con thuyền. Nhưng mỗi con thuyền là mỗi kỉ niệm trong từng chặng đường đời của ông và là kỉ niệm với từng xác người trôi sông được ông cứu vớt. “Thế nhưng, chẳng còn ai sống…”, ông Bộ ngậm ngùi thở dài...
Những lần “cãi lại lời nguyền Hà Bá”
Năm14 tuổi, cậu bé Đào Văn Bộ chính thức được bố cho tập tành với công việc đi vớt xác. Khoảng năm 25 tuổi, đó là lần đầu tiên ông Bộ trực tiếp vớt xác người tử nạn trên sông. Một thanh niên ngoài 30 tuổi đi tắm và bị chết đuối. Người dân thấy thế vội chạy tới tìm gia đình ông Bộ. Nghe tiếng gọi thất thanh, ông biết có chuyện chẳng lành và tức tốc lên đường.
“Tôi lặn xuống một hơi là tìm thấy. Nhưng vì người đàn ông đó to cao nên tôi không kéo vào bờ được mà phải nhờ mọi người quẳng dây ra để kéo cái xác vào. Đã quá dạn dĩ với các xác chết trôi sông nên tôi không còn cảm giác sợ hãi khi trong tay mình là một thân hình không còn sự sống lại trương phình. Năm đó, tuy chỉ nặng khoảng 50kg nhưng tôi khỏe lắm nên có thể lặn sâu được”, ông Bộ nói.
|
Vợ chồng ông Bộ trên chiếc thuyền mưu sinh và cứu người
Những đoạn sông chảy qua Đục Khê, Tế Tiêu, Hoài Lâm, Chợ Mới, Suối Vĩ… đã chứng kiến không ít cái chết tức tưởi trên sông nước. Sơ ý trượt chân ngã; tự tử vì tình, vì làm ăn thua lỗ; đi cào trai cào hến trên thuyền không may rớt xuống sông… đó là một trong vô vàn những cách để không ít người giải thoát bản thân mình khỏi những mâu thuẫn, những uẩn khúc trong cuộc sống.
Chính vì thế, thời gian phát hiện ra người bị nạn cũng khác nhau. Có những xác chết trôi nổi trên sông chỉ việc bơi ra kéo vào bờ. Nhưng cũng có những xác chết nằm mắc kẹt dưới đáy sông hoặc trôi tới một địa phận khác, phải tốn nhiều công sức mới tìm thấy.
“Cứu một người phúc đẳng hà sa”, ông Bộ luôn tâm niệm điều ấy. Vốn quen với sông nước nên bà Sáu cũng “xắn tay áo” xông pha cùng chồng trong nhiều vụ vớt xác người trôi sông. Tiếng khóc xé lòng, tiếng gọi người thân thảm thiết… nhiều khi đã chạm vào đáy tâm khản của những người làm nghề sông nước như vợ chồng ông Bộ.
“Người chết nhìn đã sợ nhưng người chết đuối trông còn sợ hơn nhiều. Nhưng mình không vớt, mình không làm thì ai làm đây? Cứ để họ nằm dưới đáy sông lạnh lẽo thì tội lắm. Đưa được họ về với gia đình, mình vui một nhưng gia đình họ vui 10, thậm chí người chết cũng được “ngậm cười nơi chín suối” khi được trở về nhà”, bà Sáu tâm sự.
Thế nhưng cái nghề “cãi lại lời Hà Bá” ấy cũng phải có duyên, có năng khiếu mới làm được. Vớt được vài trăm xác chết nhưng chưa gia đình nào bị vợ chồng ông “hét giá”. Thậm chí, ông Bộ còn bỏ tiền ra mua đồ cúng hoặc trả lại tiền cho những gia đình có hoàn cảnh khó khăn. Vớt xác là một chuyện nhưng mỗi khi trong làng có ai bị đau ốm cần giúp đỡ, vợ chồng ông Bộ lại sẵn sàng lên đường. “Không bao giờ để chân tay ngừng nghỉ, đó dường như là cái nghiệp của chúng tôi rồi. Nhìn thấy những người được vớt lên do tự tử, tôi không oán hận các bạn ấy mà chỉ thương, thương cả cho những người thân trong gia đình đang phải gạt nước mắt để đưa thi hài về mai táng”, bà Sáu kể.
Khi chúng tôi ngỏ ý muốn xin chụp lại hình ảnh của những chiếc móc câu – phương tiện hỗ trợ “đắc lực” cho quá trình vớt xác, ông Bộ cười: “Giữ những cái đó lại làm gì. Mỗi lần vớt xong một xác người chúng tôi lại bỏ đi cùng những linh hồn ấy. Những người sau lại mua cái mới để cho họ được nhẹ nhàng ra đi mà lòng chúng tôi cũng thấy thanh thản”.
Những con thuyền vẫn dập dềnh nơi dòng sông Đáy. Bóng hai con người đã ở cái tuổi thất tuần ấy đổ dài trên sông. Họ đang yên phận với tuổi già bên con cháu nhưng hễ có ai gọi đi vớt xác người, họ lại lên đường làm công việc dường như sinh ra là gắn liền với sinh mệnh của họ. “Nghề vớt xác như bao nghề khác, cũng phải có năng khiếu, có duyên với nghề, và quan trọng vẫn cần cái tâm không màng đến lợi nhuận thì mới làm được”, ông Bộ cười hiền.
Hoàng Mai
Tin liên quan
Cùng chuyên mục
Đọc thêm

Làng chài miền Tây giữa đại ngàn Tây Nguyên

Bài 5: Điểm tựa tâm linh trên đảo tiền tiêu

Bài 4: Sức sống xanh giữa mặn mòi biển cả

Bài 3: “ Mắt biển ” không bao giờ tắt

Bài 2: Lớp học đặc biệt giữa trùng khơi sóng gió

Những “cột mốc sống” ở Trường Sa

Những người lính quân hàm xanh vững vàng nơi biên cương

Hương Tết "làng" chổi đót

Bài 4: Gửi niềm tin, yêu thương ở lại
