Hội nghị được tổ chức trực tuyến kết nối hệ thống y tế các tỉnh, thành phố và các Viện vệ sinh dịch tễ trong cả nước trong bối cảnh Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đánh giá Việt Nam đang đứng trước nguy cơ rất cao bệnh bại liệt xâm nhập và tái mắc, sau khi Lào chính thức công bố dịch bại liệt toàn quốc vào tháng 10/2025.
![]() |
| Thứ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thị Liên Hương phát biểu tại Hội nghị |
Theo báo cáo của WHO và Cục Phòng bệnh, sự kiện khởi phát dịch tại Lào được ghi nhận từ ca liệt mềm cấp đầu tiên ngày 26/8/2025, với ca chỉ điểm là bé trai 3 tuổi tại tỉnh Savannakhet, nơi chỉ cách Quảng Trị (Việt Nam) khoảng 150km.
Chủng virus được xác định là VDPV1 với 31 nucleotide khác biệt so với chủng Sabin 1. Chỉ sau đó ít ngày, cVDPV1 tiếp tục được phát hiện trong mẫu phân của trẻ khỏe mạnh cùng khu vực.
Dựa trên bằng chứng phòng thí nghiệm, Lào công bố bùng phát dịch và WHO coi đây là ổ dịch của khu vực, yêu cầu các nước có chung biên giới, trong đó có Việt Nam, phải tăng cường biện pháp ứng phó.
Phát biểu tại Hội nghị, Thứ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thị Liên Hương nhấn mạnh nguy cơ xâm nhập bại liệt đang đe dọa nghiêm trọng thành quả thanh toán bại liệt của Việt Nam và khu vực Tây Thái Bình Dương, vốn đã được công nhận không còn bại liệt hoang dại từ năm 2000.
Trong nhiều năm qua, Việt Nam duy trì tỷ lệ trên 95% trẻ em được tiêm, uống vắc xin bại liệt trong chương trình tiêm chủng mở rộng. Tuy nhiên, diễn biến dịch tại Lào cùng nguy cơ lây truyền xuyên biên giới đã khiến nguy cơ xâm nhập vào Việt Nam “hiện hữu và rất cao”.
WHO cũng cảnh báo khoảng trống miễn dịch tại Việt Nam khi tỷ lệ uống bOPV trong năm 2024 chỉ đạt 73%, tiêm IPV2 đạt 86%. Hệ thống giám sát liệt mềm cấp ở một số địa phương chưa đạt yêu cầu, trong khi giám sát môi trường đã tạm dừng hoạt động từ cuối năm 2023.
Cùng với lưu lượng di chuyển lớn giữa Việt Nam – Lào, điều kiện vệ sinh môi trường còn bất cập, mưa lũ kéo dài và nhu cầu đi lại tăng mạnh dịp Tết Nguyên đán, nguy cơ bại liệt lây lan càng trở nên phức tạp.
Trong đó, 7 tỉnh thuộc nhóm nguy cơ cao gồm Cao Bằng, Gia Lai, Đồng Nai, Đồng Tháp, Tây Ninh, Sóc Trăng và Trà Vinh. Ngoài ra, 8 tỉnh khác gồm Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Sơn La, Điện Biên, Quảng Trị, Quảng Ngãi và Đắk Lắk được đánh giá ở mức nguy cơ cao do đặc điểm địa lý, dân cư và giao thoa biên giới.
Triển khai nghiêm các biện pháp đáp ứng và củng cố giám sát
Trước cảnh báo của WHO, Bộ Y tế đã tích cực, khẩn trương chỉ đạo các đơn vị và địa phương chủ động triển khai công tác phòng, chống bệnh bại liệt.
Các biện pháp chính đã và đang được thực hiện bao gồm: Tăng cường giám sát các trường hợp liệt mềm cấp; tăng cường hoạt động tiêm chủng thường xuyên nhằm duy trì và nâng cao tỷ lệ miễn dịch trong cộng đồng; tổ chức đánh giá nguy cơ và nâng cao năng lực về xét nghiệm.
![]() |
| Toàn cảnh Hội nghị |
Bộ Y tế cũng giao nhiệm vụ cụ thể cho các viện trong việc hoàn thiện các hướng dẫn chuyên môn kỹ thuật, xây dựng kế hoạch giám sát và đáp ứng với nguy cơ bùng phát bệnh bại liệt tại Việt Nam.
Thứ trưởng Nguyễn Thị Liên Hương kêu gọi các cấp chính quyền (lãnh đạo UBND các cấp), ngành Y tế (Sở Y tế, Trung tâm Kiểm soát bệnh tật, Trung tâm Kiểm dịch Y tế biên giới), và các tổ chức quốc tế cùng chung tay, giúp sức cho công tác phòng, chống dịch bệnh, đẩy lùi nguy cơ bệnh bại liệt xâm nhập vào Việt Nam.
WHO khuyến cáo, ngành y tế Việt Nam cần triển khai đồng bộ các biện pháp, trước hết cần tổ chức chiến dịch tiêm chủng bổ sung bOPV tại các địa phương có nguy cơ cao; tăng cường tiêm bù, tiêm vét bOPV/IPV ở các tỉnh còn lại nhằm đảm bảo tỷ lệ bao phủ vaccine tối ưu. Bên cạnh đó, cần xây dựng kế hoạch chuẩn bị và ứng phó dịch bại liệt toàn diện, tăng cường hệ thống giám sát liệt mềm cấp.
Các cơ sở y tế phải duy trì thăm khám định kỳ hằng tuần, phát hiện sớm ca nghi ngờ, thực hiện lấy mẫu bệnh phẩm kịp thời tại tất cả bệnh viện các tuyến; chủ động chuẩn bị đầy đủ vật tư, sinh phẩm phục vụ xét nghiệm.
Việt Nam tăng cường phối hợp xuyên biên giới với Lào, hợp tác với các tổ chức quốc tế như WHO, UNICEF, GPEI... nhằm cập nhật thông tin, chia sẻ cảnh báo, huy động hỗ trợ kỹ thuật khi cần thiết.
Ngoài ra, Luật Phòng bệnh vừa được Quốc hội thông qua cần sớm được cụ thể hóa bằng các nghị định, thông tư hướng dẫn, tạo hành lang pháp lý đầy đủ cho hoạt động phòng, chống bại liệt và các bệnh truyền nhiễm khác trong bối cảnh nguy cơ dịch bệnh luôn hiện hữu.
Thực tế cho thấy Việt Nam vẫn duy trì được Hệ thống giám sát liệt mềm cấp (LMC) ở mức đáp ứng yêu cầu quốc tế. Năm 2024, cả nước ghi nhận 298 ca liệt mềm cấp, tương ứng 1,19 ca/100.000 trẻ dưới 15 tuổi.
Từ năm 2010 đến nay, số ca LMC dao động 162–514 ca/năm nhưng chưa phát hiện ca bại liệt nào. Tuy nhiên, trước biến động dịch tễ phức tạp trong khu vực, việc củng cố đối sách là cần thiết.






