Những câu chuyện rùng rợn về nhân quả, nghiệp báo - Kỳ 3: Sự vi diệu của Phật pháp nhiệm màu
![]() |
(TTTĐ) - Bà Th. cất công đưa con trai đến chùa Quán Thế Âm xin các sư thầy niệm tụng kinh Phật, trợ niệm, trợ duyên giải nghiệp cho Công bớt đớn đau. Cửa Phật từ bi quả tình luôn giang rộng cánh tay với mẹ con bà…
>> Những câu chuyện rùng rợn về nhân quả, nghiệp báo: Nỗi oan nghiệt của gia đình hành nghề sát sinh
>> Những câu chuyện rùng rợn về nhân quả, nghiệp báo – Kỳ 2: Lối thoát mập mờ
Sư chú Hiền ở chùa Quán Thế Âm kể: “Lúc ra mở cửa, vừa nhìn thấy cái chân voi với khối u khủng khiếp bốc mùi hôi thối nồng nặc, máu mủ chảy tong tỏng, tôi muốn buồn nôn, sởn hết cả da gà.
Đã nhận hàng trăm ca hộ niệm nhưng chưa bao giờ tôi thấy có người bệnh nào lại trong tình trạng kinh khiếp đến như vậy. Nhưng nhìn vào khuôn mặt xác xơ, khổ đau tột cùng của người mẹ cùng lời van xin đến tội tình: “Xin sư chú rủ lòng thương cứu vớt. Mẹ con con đã hết đường sống rồi”, nhìn cảnh cháu Công còn da bọc xương nằm rên rỉ, tôi không đành lòng chối từ.
Tôi liền thưa chuyện với sư thầy trụ trì, đại đức Thích Giác Nhàn. Thầy bảo: “Cửa Phật từ bi che chở mọi khổ đau của kiếp người. Con cứ nhận họ vào”.
Từ hôm đó, hàng ngày, vào mỗi buổi sáng và chiều, sư chú Hiền, sư chú Sơn và 40 Phật tử trong Ban hộ niệm đã ngồi xếp bằng thành vòng tròn, tụng kinh niệm Phật cho Công. Mùi hôi thối bốc ra nồng nặc khắp căn phòng. Một số người không chịu đựng được đã chạy ra ngoài nôn thốc nôn tháo.
Tiếng kêu la của Công nhiều khi át cả tiếng mõ, tiếng chuông. Hai sư chú và các Phật tử vẫn dốc lòng nhất tâm hộ niệm suốt 2 tiếng. Máu mủ từ vết loét to ngoạc nhỏ tỏng tỏng xuống tấm mền lót bên dưới. Một lúc, lại phải thay tấm mền khác.
![]() |
Đại đức Thích Giác Nhàn ở chùa Quán Thế Âm khi giảng đạo Phật thường ngày |
Ngày 3 lần, sư chú Sơn đi găng tay y tế, luồn qua miệng khối u, thọc sâu vào bên trong đến tận khuỷu tay, móc dần những cục thịt thối ra để cho Công bớt đau. Chú làm ân cần, dịu dàng.
Khuôn mặt chú hiền từ. Vừa làm, chú vừa nói với Công: “Sư chú biết con đau lắm. Nhưng nếu con cứ kêu rên như thế sẽ khiến con càng đau, càng mệt. Con hãy nương vào lời tụng niệm A Di Đà Phật mà các bác, các cô chú ở đây đang tụng cho con. Và con hãy tụng theo. Sư chú tin, con sẽ bớt đau”. Công làm theo. Từ bấy, nó thấy bớt đau nhiều.
Sư chú Sơn kể: “Mấy ngày sau, Công không kêu rên nữa. Cậu thành tâm niệm Phật. Điều kỳ lạ là mùi hôi thối bớt dần. Ai cũng ngạc nhiên và càng tin vào sự vi diệu của đạo Phật. Vì thế, càng hết lòng hộ niệm cho cậu ấy”.
Một tháng sau, vào buổi sáng, khi sư chú Sơn đang lựa tay khẽ khàng móc từng mảng thịt thối trong khối u khổng lồ, Công khẽ khàng bảo: “Chú Sơn ơi! Tối qua con nằm mơ thấy Phật Di Đà về đón con đi. Ngài mặc áo vàng rực, tay cầm đóa sen vàng. Ngài mỉm cười với con chú ạ”.
“Thế con có sợ chết không?” – Chú Sơn hỏi. “Con chỉ sợ đau chứ không sợ chết. Chú vẫn bảo con: Nếu con thành tâm niệm Phật hàng ngày, con sẽ được vãng sanh về cõi Tây Phương cực lạc còn gì”. Sư chú Sơn mỉm cười gật đầu.
![]() |
Hàng ngày, sư chú Sơn đều nhẹ nhàng, ân cần chăm sóc, thay rửa khối u cho Công bớt đau |
Công bảo: “Con muốn gặp mẹ con”. Khi mẹ ngồi bên, Công nói, giọng nhẹ nhàng nhưng rành rọt: “Mẹ ơi! Con bị bệnh thế này là do mẹ tạo nghiệp sát sinh suốt 15 năm đó. Mẹ đừng làm nghề giết mổ gà vịt nữa nhé. Dù cho phải đi ăn xin mẹ cũng không được làm. Mà mẹ chuyển hẳn sang ăn chay trường đi. Còn ăn mặn là còn cộng nghiệp cho những người hành nghề giết mổ”.
Buổi chiều hôm ấy, Công trút hơi thở cuối cùng trong tiếng mõ, lời kinh của Ban hộ niệm chùa Quán Thế Âm. Công ra đi nhẹ nhàng, thanh thản. Không rên la, không đau đớn. Khuôn mặt hồng hào như người đang ngủ.
Điều kỳ lạ là toàn thân tỏa mùi thơm như hương trầm và mềm mại. Mềm đến độ sư chú Sơn nhấc cả hai tay của nó lên, lắc lư. Cổ tay, những ngón tay trắng hồng của Công lắc lư theo như múa. Cả khán phòng bỗng vang lên “A Di Đà Phật” như tiếng reo vui của niềm tin của những người con Phật vào Phật pháp nhiệm màu. Cũng ngay buổi chiều hôm ấy, mẹ cậu đã xin sư trụ trì xuống tóc đi tu.
![]() |
Buổi chiều hôm ấy, Công trút hơi thở cuối cùng trong tiếng mõ, lời kinh của Ban hộ niệm chùa Quán Thế Âm |
Trong lễ hỏa táng Công tại thành phố Đà Lạt, Đại đức Thích Giác Nhàn đã kể một tích trong Kinh pháp cú: “Lúc Đức Thế Tôn cùng các Tỳ kheo ở tại tịnh xá Trúc Lâm. Cách đó không xa, có tên đồ tể Cunda sống bằng nghề mổ heo.
Mỗi lần giết heo, ông ta trói heo thật chặt vào cột và nện nó bằng một cây chày vuông rồi banh hàm và rót nước sôi vào họng, đổ nước sôi lên lưng heo, làm tuột lớp da đen và thui lớp lông cứng bằng một bó đuốc. Cuối cùng, ông cắt đầu heo bằng một thanh kiếm nhọn rồi xẻ thịt, lột da.
Cunda hành nghề như thế gần hai mươi năm. Dù Đức Thế Tôn ở tịnh xá cách đó không xa mà chẳng khi nào Cunda cúng dường Ngài, dù là một cành hoa hay một nắm cơm. Hắn cũng không làm một việc công đức nào cả.
Cho đến một ngày, ông ta mắc bệnh và dù ông ta vẫn còn sống nhưng lửa của địa ngục A-tỳ đã bốc cháy trước mặt. Khi cực hình địa ngục giáng xuống đồ tể Cunda, ông ta bắt đầu kêu eng éc, bò bằng tay và đầu gối.
Người nhà rất kinh khiếp, tìm mọi cách bịt miệng ông ta, chặn các cửa và nhốt ông ở trong nhà. Suốt bảy ngày, chịu sự đau khổ cùng cực của địa ngục, ông luôn mồm rống eng éc như heo.
Vài Tỳ kheo đi ngang qua cửa nhà ông, nghe tiếng kêu eng éc ồn ào, khi về tịnh xá, bạch với Đức Thế Tôn: “Bạch Thế Tôn! Suốt bảy ngày qua cửa nhà đồ tể Cunda đóng kín và ông ấy vẫn tiếp tục giết heo. Thế Tôn nghĩ xem, biết bao nhiêu heo bị giết. Thật từ trước tới nay chưa thấy ai độc ác và dã man như thế”.
Đức Thế Tôn nói: “Này các Tỳ kheo! Ông ta không giết heo trong bảy ngày qua. Sự trừng phạt phù hợp với việc làm ác đã xảy đến đối với ông ta. Ngay khi ông ta còn sống, cực hình của địa ngục A-tỳ đã hiển hiện.
Vì cực hình này, ông ta bò tới bò lui trong nhà, kêu la eng éc như một con heo suốt bảy ngày. Hôm nay ông ta đã chết và bị đọa vào địa ngục A-tỳ”. Nói xong, Thế Tôn đọc pháp cú:“Nay sầu, đời sau sầu. Kẻ ác hai đời sầu. Nó sầu, nó ưu não. Thấy nghiệp uế mình làm”.
Thầy Thích Giác Nhàn bảo: “Chuyện đồ tể Cunda bị quả báo, chịu cực hình suốt bảy ngày lúc cuối đời, được ghi lại trong kinh tạng là một điển hình của quả báo nhãn tiền.
Không chỉ chuyện ngày xưa, ngay hiện tại đây, hãy bình tâm nhìn ra xung quanh chúng ta để nhận thấy kết cục thảm hại của những người, những gia đình sống ác, làm các điều bất thiện. Không kể họ là ai, nếu không biết phục thiện, chạy theo cái ác thì chắc chắn sẽ bị quả báo xấu.
Và không cần đợi xem những quả báo ở kiếp sau, ngay trong đời kiếp này thì chúng ta cũng có thể thấy quả báo nhãn tiền của nhiều người. Chính những cái thấy về nhân quả một cách chân xác, xảy ra ngay trước mắt ấy sẽ thức tỉnh chúng ta hướng về điều thiện, bỏ ác làm lành để bản thân, gia đình và xã hội ngày càng tốt đẹp hơn”.
Hoàng Anh Sướng
(Nguồn ảnh: Nhân vật cung cấp)
Tin liên quan
Cùng chuyên mục
Đọc thêm

Bài 2: Lớp học đặc biệt giữa trùng khơi sóng gió

Những “cột mốc sống” ở Trường Sa

Những người lính quân hàm xanh vững vàng nơi biên cương

Hương Tết "làng" chổi đót

Bài 4: Gửi niềm tin, yêu thương ở lại

Bài 3: Vững vàng cánh sóng Ra đa

Tô thắm lý tưởng cao đẹp của người chiến sĩ Thủ đô

Hà Nội nghĩa tình ở Trường Sa

Tết sớm ở Trường Sa: Ấm áp tình quân dân giữa biển khơi
