Phân loại rác theo người Nhật, bài học cho các nước áp dụng
| Cần Thơ mở rộng hợp tác, thu hút đầu tư từ Nhật Bản |
Tiến sĩ (TS) Bùi Thị Thanh Hương, giảng viên, chuyên gia giáo dục bền vững của Bộ môn Biến đổi khí hậu và Khoa học bền vững, Trường Khoa học Liên ngành và Nghệ thuật (Đại học Quốc gia Hà Nội), đã có những chia sẻ thú vị về mô hình phân loại rác của Nhật Bản và bài học cho Việt Nam.
Ai không tuân thủ sẽ bị dán nhãn vi phạm
- PV: Là người dành nhiều thời gian nghiên cứu về rác thải ở Việt Nam và nhiều nước trên thế giới, chị có thể cho biết Nhật Bản đã hình thành thói quen phân loại rác từ khi nào, dựa trên những cơ sở pháp lý và xã hội nào?
- TS Bùi Thị Thanh Hương: Nhật Bản bắt đầu “định chế hóa” phân loại rác từ thập niên 1970 với Luật Quản lý Chất thải và Vệ sinh công cộng (Waste Management and Public Cleansing Law, Luật số 137/1970). Luật này quy định rõ mục tiêu bảo vệ môi trường thông qua việc giảm phát sinh - phân loại - thu gom - tái chế - xử lý đúng cách; đây chính là nền tảng cho mọi quy định địa phương về phân loại rác sau này.
![]() |
| Tiến sĩ (TS) Bùi Thị Thanh Hương, giảng viên, chuyên gia giáo dục bền vững của Bộ môn Biến đổi khí hậu và Khoa học bền vững |
Đến thập niên 1990, làn sóng “3R” (Reduce - Reuse - Recycle) được luật hóa mạnh mẽ với Luật Tái chế bao bì và vật chứa (ban hành năm 1995, có hiệu lực từng phần từ 1997 và mở rộng năm 2000). Luật này phân vai rất rõ: Chính quyền thu gom có phân loại, doanh nghiệp chịu trách nhiệm tái chế, người dân phân loại tại nguồn. Cơ chế được vận hành bởi tổ chức JCPRA - đơn vị được Chính phủ chỉ định.
Từ năm 2000, Nhật ban hành Luật Cơ bản về xây dựng xã hội tuần hoàn vật chất (Basic Act for Establishing a Sound Material-Cycle Society), yêu cầu Chính phủ lập kế hoạch căn bản về xã hội tuần hoàn và triển khai chính sách 3R đồng bộ toàn quốc. Đây là cơ sở pháp lý tối thượng, kết nối các luật tái chế theo từng ngành hàng như điện gia dụng, thực phẩm, xây dựng…
Về cơ sở xã hội, Nhật trao quyền mạnh cho chính quyền đô thị (municipalities) để ban hành “sổ tay phân loại”, lịch gom rác (gomi calendar) và quy định sử dụng túi rác chuyên dụng hoặc túi trong suốt. Ai không tuân thủ sẽ bị dán nhãn vi phạm và không được thu gom. Cơ chế “xấu hổ công khai nhưng có hướng dẫn khắc phục” này tạo nên chuẩn mực xã hội bền vững, duy trì hành vi đúng một cách tự nhiên.
- PV: Quy trình phân loại rác tại Nhật Bản cụ thể ra sao, bao gồm những nhóm nào, cách thức và thời gian thu gom thế nào, thưa chị?
- TS Bùi Thị Thanh Hương: Nhật Bản phân quyền cho từng địa phương, nên số nhóm rác có thể khác nhau. Tuy nhiên, mẫu số chung thường gồm 4- 6 nhóm chính: Rác cháy được (burnable): thực phẩm, giấy bẩn, vải, gỗ nhỏ...; rác không cháy được (non-burnable): kim loại nhỏ, gốm sứ, thủy tinh vỡ...; tài nguyên tái chế (recyclables): chai PET, lon kim loại, chai thủy tinh, giấy, bìa, nhựa bao bì…; rác cồng kềnh (sodai gomi) được thu gom theo lịch riêng, phải mua tem hoặc sticker trả phí.
![]() |
| Tiến sĩ Bùi Thị Thanh Hương là chuyên gia tư vấn chính sách cho nhiều bộ, ngành và tổ chức quốc tế như UNDP, UNESCO, WWF trong lĩnh vực phát triển xanh, giáo dục tái tuần hoàn rác thải |
Ví dụ, Yokohama hướng dẫn rất chi tiết: Rác cháy được phải bỏ vào túi trong suốt, chai PET phải rửa sạch và ép dẹt, pin khô để riêng. Lịch thu gom được công khai theo ngày hoặc tuần, kèm bảng minh họa “đúng - sai”.
Tokyo 23 quận thường tách rác thành khoảng 5 nhóm và công bố lịch gom trực tuyến. Rác cồng kềnh phải dán sticker và đặt đúng khung giờ hẹn. Một số địa phương còn áp dụng túi rác chuyên dụng có thu phí (pay-as-you-throw), buộc người dân mua đúng loại túi; trong khi Tokyo không thu phí túi nhưng bắt buộc sử dụng túi trong suốt hoặc bán trong, túi đen có thể bị từ chối thu gom.
- PV: Bên cạnh quy trình phân loại rác, người dân Nhật thường được tuyên truyền, giáo dục ý thức bằng những hình thức nào?
- TS Bùi Thị Thanh Hương: Người dân Nhật được tuyên truyền bằng một hệ thống công cụ rất đồng bộ: Cẩm nang hướng dẫn minh họa, ứng dụng điện thoại (mobile app) có nhắc lịch chi tiết, các sản phẩm hỗ trợ như túi phân loại, cùng chế tài xử phạt minh bạch.
Đặc biệt, họ có cơ chế phản hồi tại chỗ. Nghĩa là nếu túi rác sai quy định, nhân viên thu gom sẽ dán sticker lỗi và để lại, buộc người dân phải mang về phân loại lại. Đây là hình thức “giáo dục hành vi” rất hiệu quả không cần phạt nặng mà vẫn tạo ra sự tuân thủ tự nguyện.
Bài học kinh nghiệm quý giá
- PV: Từ cách làm của người Nhật, bài học rút ra cho các nước đang phát triển như Việt Nam là gì, thưa chị?
- TS Bùi Thị Thanh Hương: Có thể tóm gọn thành 3 trụ cột đồng bộ: Luật và chính sách ràng buộc rõ vai trò giữa Nhà nước - địa phương - doanh nghiệp - người dân. Hạ tầng và logistics, đồng bộ các điểm thu gom, bình chứa, lịch gom, nhà máy xử lý và tái chế. Kinh tế khuyến khích và minh bạch dữ liệu, cơ chế túi trả phí hoặc “ví điểm xanh”, bảng điều khiển công khai.
![]() |
| Các thùng để phân loại rác thải được lắp đặt tại Bệnh viện Đa khoa Sóc Sơn |
Nhật Bản thành công vì họ thiết kế hành vi hơn là hô khẩu hiệu. Những chi tiết như túi trong suốt, sticker lỗi hay app nhắc lịch đều là “nudge”, cú huých nhỏ nhưng có sức tác động lớn.
Đặc biệt, doanh nghiệp phải “đi cùng rác” thông qua cơ chế EPR (trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất): Doanh nghiệp phải tài trợ, thu hồi, tái chế bao bì và báo cáo kết quả công khai. Việt Nam đã có nền tảng này trong Luật Bảo vệ môi trường 2020, Nghị định 08/2022/NĐ-CP và được cập nhật bởi Nghị định 05/2025/NĐ-CP - vấn đề là cần triển khai thực chất hơn ở cấp địa phương.
- PV: Theo chị, yếu tố quan trọng nhất để Việt Nam áp dụng “cách Nhật” là gì?
- TS Bùi Thị Thanh Hương: Tôi chọn “chuyển đổi dữ liệu và hạ tầng đầu cuối” làm điểm nổ. Chuỗi hạ tầng khép kín, từ thùng, túi phân loại lịch gom - trạm trung chuyển - cơ sở xử lý, tái chế là điều bắt buộc. Nếu thiếu “đầu cuối”, phân loại tại nguồn sẽ… tan rã ngay trên xe gom.
Cùng với đó, cần minh bạch dữ liệu theo thời gian thực: Bản đồ điểm gom, cân điện tử, bảng điều khiển EPR. Khi người dân thấy rõ rác của mình đi đâu, họ sẽ phân loại tốt hơn. Nhật Bản làm rất kỹ điều này qua hệ thống “gomi calendar/app”.
Còn với doanh nghiệp, cần ràng buộc EPR thực chất: Đóng góp tài chính hoặc tự tái chế, có báo cáo công khai theo từng ngành hàng - tương tự mô hình CPRL.
![]() |
| Việc phân loại rác tại nguồn sẽ góp phần giảm thiểu ô nhiễm môi trường |
- PV: Vậy Việt Nam nên ưu tiên lĩnh vực nào trước: Pháp lý, tuyên truyền hay hạ tầng?
- TS Bùi Thị Thanh Hương: Cả 3 là một hệ thống thống nhất nhưng thứ tự thực thi nên là: Hạ tầng và cơ chế kinh tế - đặt nền như chuẩn hóa nhóm rác (ví dụ 5 nhóm) cùng màu, thùng, túi tương ứng; thí điểm túi trong suốt ở các đô thị lớn; áp dụng cơ chế trả phí theo lượng rác (pay-as-you-throw) hoặc điểm thưởng số để khuyến khích hành vi đúng.
Pháp lý - ràng buộc và chia vai rõ: Tận dụng khung Luật Bảo vệ môi trường 2020, Nghị định 08/2022, Nghị định 05/2025 để ra quyết định địa phương về phân loại tại nguồn; gắn KPI cụ thể cho UBND quận/huyện và doanh nghiệp EPR.
Truyền thông - giáo dục - duy trì hành vi: Bỏ khẩu hiệu chung chung; thay bằng cẩm nang minh họa, lịch gom số hóa, và cơ chế hoàn nguyên khi làm sai (dán tem lỗi, không thu gom, hướng dẫn cách sửa).
Đây là “đặc sản” khiến người Nhật tuân thủ rất cao vì họ được hướng dẫn, không chỉ bị nhắc nhở.
- PV: Chị có thể chia sẻ thông điệp khái quát nhất cho Việt Nam trong hành trình này?
- TS Bùi Thị Thanh Hương: Nhật Bản thành công vì họ coi phân loại rác là một dịch vụ công dựa trên dữ liệu, chứ không phải phong trào. Khi Việt Nam khóa chặt vai trò EPR của doanh nghiệp, buộc họ chịu trách nhiệm đến hết vòng đời sản phẩm, đầu tư hạ tầng cuối chuỗi (phân loại - ép kiện - tái chế - tái nhập nguyên liệu) và áp dụng cưỡng chế hành vi “nhẹ tay mà chắc” như tem lỗi, lịch số hóa, túi trong suốt thì hệ thống sẽ tự tạo phản hồi tích cực.
Người dân chọn đúng không phải vì bị ép buộc mà vì đó là điều thuận tiện, minh bạch và được xã hội công nhận.
Nếu Việt Nam muốn điều hướng hành vi xanh bền vững, cần biến phân loại rác thành một hệ thống dịch vụ công dựa trên dữ liệu, chứ không phải phong trào vận động; chuẩn hóa hạ tầng thu gom, số hóa lịch trình theo từng địa phương, và gắn mã dữ liệu EPR cho doanh nghiệp để đảm bảo minh bạch dòng vật chất và dòng tiền.
Một khi “rác có danh tính” và “người dân có công cụ thuận tiện”, hành vi đúng sẽ trở thành thói quen tự nhiên của xã hội thông minh, không cần khẩu hiệu hay loa phường. Khi đó số hóa tài nguyên rác nhìn từ thể chế và văn hóa mới thật sự trọn vẹn và sâu sắc.
Trân trọng cảm ơn chị!
| TS Bùi Thị Thanh Hương, giảng viên bộ môn Biến đổi khí hậu và Khoa học bền vững - Trường Khoa học Liên ngành và Nghệ thuật, Đại học Quốc gia Hà Nội, là đại diện Việt Nam được bổ nhiệm làm điều phối viên khu vực Đông Nam Á của Hội Khoa học Quốc tế về Quản lý chất thải, không khí và nguồn nước có phạm vi hoạt động của ISWMAW rộng khắp hơn 50 quốc gia. TS Bùi Thị Thanh Hương còn là Nhà sáng lập, Giám đốc Công ty Cổ phần VNU Greentech Spin-off. Chị cũng là chuyên gia tư vấn chính sách cho nhiều bộ, ngành và tổ chức quốc tế như UNDP, UNESCO, WWF trong lĩnh vực phát triển xanh, giáo dục tái tuần hoàn rác thải. Bên cạnh đó, TS Hương còn là cố vấn khởi nghiệp cho nhiều nhóm sinh viên đổi mới sáng tạo, với các dự án đoạt giải cao về tái tuần hoàn rác thải thông minh và giáo dục cộng đồng hướng tới một không gian sống xanh, không rác thải. |
Tin liên quan
Cùng chuyên mục
Đọc thêm
Xã hội
Đà Nẵng yêu cầu các thủy điện vận hành hạ mức nước đón lũ
Môi trường
Bài 3: Tiềm năng ứng dụng công nghệ xử lý khí thải Ha Lô
Môi trường
Bão số 15 tiếp tục đổi hướng, cách đảo Song Tử Tây khoảng 260 km
Môi trường
Bão số 15 giảm cường độ, đổi hướng và tiếp tục di chuyển chậm
Xã hội
Đổi túi ni-lông lấy túi vải, gieo xanh, giữ lành
Nhịp sống phương Nam
Cà Mau xây dựng kế hoạch ứng phó biến đổi khí hậu
Môi trường
Gia Lai công bố tình huống khẩn cấp về thiên tai
Môi trường
Bão số 15 đổi hướng và tiếp tục di chuyển chậm
Xã hội
Đắk Lắk chạy đua với thời gian khắc phục hậu quả đợt mưa lũ lịch sử
Môi trường






