Thúc đẩy phát triển kinh tế tuần hoàn
Ngành Bao bì SCG ra mắt sản phẩm tiêu dùng giấy đầu tiên áp dụng khái niệm kinh tế tuần hoàn Vinamilk thực hành kinh tế tuần hoàn, chú trọng phát triển bền vững |
Resort bò sữa Tây Ninh xây dựng theo mô hình phát triển bền vững, đóng góp vào kinh tế tuần hoàn |
Kinh tế tuần hoàn – nền tảng của phát triển bền vững
Kinh tế tuần hoàn là một mô hình kinh tế trong đó các hoạt động thiết kế, sản xuất và dịch vụ đặt ra mục tiêu kéo dài tuổi thọ của vật chất, và loại bỏ tác động tiêu cực đến môi trường. Đây là mô hình kinh tế trong đó đặc biệt chú trọng đến quản lý và tái tạo tài nguyên theo một vòng khép kín nhằm tránh tạo ra phế thải. Mô hình kinh tế tuần hoàn là mô hình mà quan điểm tái sử dụng những gì có thể, tái chế những gì không thể tái sử dụng, sửa chữa những gì hỏng hóc, tái sản xuất những gì không thể sửa chữa.
Trong những năm gần đây Bộ Tài nguyên và Môi trường luôn có những chủ trương, chính sách dựa trên cơ sở nhận thức sâu sắc: ứng dụng thành công nền kinh tế tuần hoàn có thể thúc đẩy sử dụng các sản phẩm và dịch vụ công nghệ cao, từ đó tối ưu hoá việc sử dụng các nguồn tài nguyên.
Tại cuộc họp Quỹ Bảo vệ Môi trường Toàn cầu, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Trần Hồng Hà đã cam kết giảm tiêu thụ nhựa tại Việt Nam; thiết lập mối quan hệ đối tác khu vực biển Đông Á, kêu gọi thúc đẩy hợp tác toàn cầu và khu vực chung tay cùng giải quyết vấn đề rác thải nhựa đại dương.
Hiện nay, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã và đang triển khai các nhiệm vụ liên quan đến xây dựng chính sách, lộ trình tiến tới loại bỏ chất thải nhựa sử dụng một lần và nilon không phân hủy, xây dưng mô hình công nghệ hướng tới kinh tế tuần hoàn, nói không với rác thải nhựa và nilon không phân hủy.
Đây là một trong những nhiệm vụ được Bộ Tài nguyên và Môi trường đặc biệt coi trọng, thể hiện quan điểm của Bộ Tài nguyên và Môi trường trong việc bảo vệ môi trường, đồng thời thể hiện quyết tâm tham gia mô hình kinh tế tuần hoàn, mang lại sự phát triển bền vững, đồng thời nâng cao chất lượng cuộc sống của cộng đồng, góp phần thực hiện mục tiêu phát triển bền vững của Việt Nam cũng như trên phạm vi toàn cầu.
Bang California quy định rằng, trong công trình đường xá do chính quyền Bang đầu tư tối thiểu 25% vật liệu xây dựng phải lấy từ rác thải công nghiệp. Ngoài ra, các nhà máy xi măng sử dụng tro than trong sản xuất thì được giảm thuế.
Tại Nhật Bản, do luật môi trường hiện nay khá nghiêm ngặt, doanh nghiệp phải chủ động xây dựng nhà máy xi măng hay liên kết với các công ty khác để sử dụng tro xỉ than một cách hiệu quả.
Kinh nghiệm từ Thụy Điển: Lượng chất thải sinh hoạt gia đình được tái chế đã tăng từ 38% vào năm 1975 lên 99% hiện nay và chỉ còn 1% chất thải được chuyển đến các bãi rác. Rất nhiều chất thải được tái chế và sử dụng cho các mục đích khác nhau. Thụy Điển hiện đã trở thành một nhà nhập khẩu chất thải với trên 2,3 triệu tấn mỗi năm. Từ đó, cắt giảm chi phí sản xuất cũng như hạ giá thành sản phẩm và mang lại lợi ích cho người tiêu dùng hay người sản xuất. Thụy Điển hướng tới một xã hội không rác thải.
Tetra Pak, nhà cung cấp giải pháp chế biến và đóng gói thực phẩm đến từ Thụy Điển, là một trong những công ty tiên phong trong nhiều sáng kiến bảo vệ môi trường. Sản phẩm hộp giấy đựng thực phẩm lỏng của hãng được sản xuất từ nguồn rừng tái sinh và có kiểm soát, được dán nhãn chứng nhận bảo vệ rừng. Hãng đã bắt đầu thử nghiệm ống hút giấy dùng cho các sản phẩm đồ uống đóng hộp tại châu Âu, là công ty cung cấp giải pháp đóng gói đầu tiên ra mắt ống hút giấy tại châu lục này.
Tại Pháp, 99% tro xỉ than được tái sử dụng, tại Nhật Bản con số này là 80% và tại Hàn Quốc là 85%.
Trong công nghiệp xi măng, tro thô được dùng để thay thế đất sét, một trong những nguyên liệu chính để chế tạo xi măng. Ở các nước tiên tiến, bên cạnh nhà máy nhiệt điện luôn luôn có các nhà máy xi măng để sử dụng tro xỉ than tại chỗ. Tro thô còn được trộn với các vật liệu kết dính như xi măng để làm vật liệu nền dường. Ngoài ra, nó còn được dùng để làm phân bón, trong việc đánh bắt cá,…
Trong bê tông, tro bay được dùng để thay thế khoảng trên dưới 30% xi măng nhờ rất nhiều ưu điểm đặc trưng của nó. Trong xây dựng các khối bê tông lớn như đập thủy điện, việc thay thế một phần xi măng bằng tro bay giúp giảm nhiệt lượng tỏa ra trong khối bê tông do phản ứng thủy hóa của xi măng, tránh nứt nẻ, tăng độ bền và giảm giá thành xây dựng rất nhiều. Với các công trình nước thải, việc sử dụng tro bay trong bê tông làm tăng tính bền của bê tông trước sự tấn công của acid…
Để có thể chuyển sang cũng như dần tăng kinh tế tuần hoàn cần có những chế tài, luật lệ ép buộc cũng như khuyến khích việc tái sử dụng rác thải công nghiệp.
Sơ đồ vòng tròn quản lý nguồn đất bền vững được thực hiện tại các trang trại bò sữa của Vinamilk |
Cơ hội và thách thức cho phát triển kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam
Trung Quốc và Nhật Bản đều là những nước tiên phong về phát triển kinh tế tuần hoàn ở châu Á nhưng cũng gặp phải một số khó khăn thách thức, khó có thể đạt được kinh tế tuần hoàn 100% không phát thải bởi vì một số nguyên liệu chỉ có thể tái chế một số lần nhất định như giấy, hoặc không tái chế như thủy ngân, amiăng….
Bên cạnh đó, kinh tế tuần hoàn đòi hỏi phải triển khai một cách có đồng bộ và hệ thống giữa các thực thể trong nền kinh tế. Trước đây, Trung Quốc đã phát triển mạnh phong trào phân loại rác, tuy nhiên sau khi phân loại rác thì rác lại được đổ gom chung để phân hủy, điều này làm cho việc phân loại rác trở nên không có ý nghĩa. Trong khi đó, Nhật Bản đã khẳng định phát triển kinh tế tuần hoàn đòi hỏi phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa Nhà nước, nhà sản xuất và người tiêu dùng.
Ngoài ra, kinh tế tuần hoàn đòi hỏi chi phí lớn và ứng dụng khoa học công nghệ cao. Các doanh nghiệp phải bỏ một khoản tiền để mua máy móc, thiết bị mới theo tiêu chuẩn tiết kiệm năng lượng hoặc sử dụng nguyên liệu sạch, gây ảnh hưởng lớn đến lợi nhuận của doanh nghiệp.
Phát triển kinh tế tuần hoàn cần có hệ thống tiêu chuẩn chất lượng cho các sản phẩm tái chế riêng. Các sản phẩm tái chế sẽ thường không đạt được tiêu chuẩn so với một sản phẩm sản xuất mới tuy đã đạt được tiêu chuẩn cho phép sử dụng, điều này gây bất lợi cho các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm tái chế.
Ở Việt Nam, hoạt động kinh tế từ trước đến nay vẫn chủ yếu dựa trên cách tiếp cận truyền thống, đó là kinh tế tuyến tính. Đây cũng là nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình trạng thiếu hụt các nguồn tài nguyên thiên nhiên và đặc biệt là gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng.
Để thực hiện phát triển nhanh, bền vững, giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường, “không đánh đổi” tăng trưởng kinh tế với ô nhiễm và suy thoái môi trường, chuyển đổi sang kinh tế tuần hoàn là hướng đi thích hợp. Tuy nhiên, việc chuyển đổi này cần phải nắm bắt được những cơ hội và chấp nhận những thách thức cần phải vượt qua.
Ở cấp độ thấp, kinh tế tuần hoàn tập trung vào quá trình sản xuất của các doanh nghiệp và các mặt hàng nông sản, các nhà sản xuất được khuyến khích và yêu cầu áp dụng các phương pháp sản xuất sạch hơn và thiết kế sinh thái.
Ở cấp độ cao, cấp độ doanh nghiệp, toàn bộ các công đoạn của quá trình sản xuất đều được thiết kế và không có chất thải đưa ra môi trường. Chất thải đều được giảm thiểu tối đa, tái sử dụng và tái chế.
Để thúc đẩy kinh tế tuần hoàn, cần phải có một hành lang pháp lý rõ ràng cho hình thành, phát triển các mô hình kinh tế tuần hoàn. Doanh nghiệp là động lực trung tâm, nhà nước đóng vai trò kiến tạo, các tổ chức và từng người dân tham gia thực hiện. Vai trò kiến tạo của nhà nước thể hiện trong việc tạo ra một môi trường để kinh tế tuần hoàn phát triển.
Việt Nam có thể cân nhắc đưa cả hai cách tiếp cận thực hiện kinh tế tuần hoàn của quốc tế vào lộ trình của mình, đó là: Cách tiếp cận theo nhóm ngành, sản phẩm, nguyên liệu hoặc vật liệu và cách tiếp cận theo quy mô kinh tế, thành lập các không gian địa lý.
Bên cạnh đó, lộ trình cũng cần tiếp tục thực hiện các nội dung khác của kinh tế tuần hoàn, như khuyến khích năng lượng tái tạo, thúc đẩy sử dụng các sản phẩm thân thiện với môi trường, hoàn thiện và phát triển các mô hình kinh tế tuần hoàn đã có tại Việt Nam.
Tóm lại, để phát triển kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam cần phải hiểu rõ bản chất và luận cứ được cách thức phát triển này. Để phát triển kinh tế tuần hoàn cần tổng kết, đánh giá những mô hình phát triển đã có đối với các ngành, lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ, từ đó nhận dạng những cách thức phát triển gần với tiếp cận kinh tế tuần hoàn làm cơ sở để phát triển theo những tiêu chí của kinh tế tuần hoàn. Cần nhận thức được những cơ hội để tận dụng các cơ hội này, mặt khác cũng phải thấy được những thách thức đối với phát triển kinh tế tuần hoàn sẽ gặp phải để có biện pháp khắc phục.
Theo ông Trần Quốc Phương, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư, phát triển kinh tế tuần hoàn giúp Việt Nam tránh lệ thuộc vào nền kinh tế bên ngoài, nhất là về nguyên liệu và nhiên liệu phục vụ sản xuất. Không những thế, việc chuyển đổi sang kinh tế tuần hoàn còn là một cơ hội lớn để Việt Nam phát triển nhanh và bền vững, không chỉ đạt mục tiêu kinh tế, xã hội, môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu, mà còn giúp đạt được các mục tiêu của Chương trình Nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững.
Trong khi đó, nhìn ở góc độ doanh nghiệp, TS. Võ Trí Thành, Viện trưởng Viện Nghiên cứu chiến lược thương hiệu và cạnh tranh cho rằng, chuyển đổi sang kinh tế tuần hoàn là điều “buộc chúng ta phải làm”. “Một khi xuất khẩu sang châu Âu không đáp ứng được các tiêu chuẩn xanh, người tiêu dùng quay lưng, thì các doanh nghiệp buộc phải làm theo”, ông Võ Trí Thành nói và cũng nhắc đến việc Ngân hàng Nhà nước gần đây đã đưa ra chương trình tín dụng xanh, khi thẩm định cho vay dự án đều đặt “xanh” là một yếu tố quan trọng.
“Dự án không xanh, không có đánh giá tác động môi trường sẽ không vay được vốn. Không xanh không tiếp cận được vốn của các tổ chức, các ngân hàng quốc tế”, ông Thành nhấn mạnh.
Rõ ràng, vấn đề không phải chỉ là xu hướng, mà kinh tế tuần hoàn chính là con đường mà Việt Nam và doanh nghiệp Việt Nam phải đi, để phát triển nhanh và bền vững. Tuy nhiên, theo ông Nguyễn Thế Chinh, có nhiều thách thức đối với việc thực hiện kinh tế tuần hoàn của Việt Nam, trong đó bao gồm cả việc nhận thức đúng về bản chất của kinh tế tuần hoàn, hay kinh tế tuần hoàn gắn với đổi mới công nghệ và pháp lý. Chưa kể, chưa có hành lang pháp lý, chưa có bộ tiêu chí để nhận diện đánh giá và cũng chưa có cơ quan đầu mối chủ trì về vấn đề này, trong khi kinh tế tuần hoàn liên quan đến nhiều lĩnh vực, từ rác thải đến biến đổi khí hậu, công nghệ và tiền vốn…
Để phát triển kinh tế tuần hoàn, chúng ta cần phải có một hành lang pháp lý rõ ràng cho hình thành, phát triển kinh tế tuần hoàn, từ chủ trương của Đảng đến pháp luật của Nhà nước. Kinh nghiệm các nước đã và đang thực hiện kinh tế tuần hoàn đều có luật và quy định pháp lý rõ ràng. Việt Nam cần có lộ trình và tiến tới xây dựng luật cho phát triển kinh tế tuần hoàn.
Chúng ta cần triển khai nghiên cứu sâu rộng về phát triển kinh tế tuần hoàn từ cách tiếp cận chung toàn cầu, nguyên tắc xác lập theo ngành, lĩnh vực, triển khai mô hình, tiêu chí của mô hình kinh tế tuần hoàn, từ đó lựa chọn vận dụng cụ thể vào hoàn cảnh thực tiễn Việt Nam và phổ biến rộng rãi đến doanh nghiệp, người dân, các nhà quản lý để có sự nhìn nhận đúng.
Phát triển kinh tế tuần hoàn cần phải dựa trên các ngành, lĩnh vực và địa phương đã và đang triển khai các mô hình kinh tế gần với cách tiếp cận kinh tế tuần hoàn, từ đó bổ sung hoàn thiện và có sự lựa chọn phù hợp cho từng ngành, lĩnh vực từ thí điểm đến triển khai nhân rộng.
Các cơ quan cần nghiên cứu, tạo cơ chế để hình thành động lực thị trường dựa trên các tiêu chí của hiệu quả đầu tư, khuyến khích doanh nghiệp, người dân, nhất là khu vực tư nhân đầu tư, thực hiện phát triển các lĩnh vực thuộc kinh tế tuần hoàn, xác lập rõ vai trò của doanh nghiệp trong việc thực hiện phát triển kinh tế tuần hoàn; tăng cường trao đổi, học hỏi kinh nghiệm quốc tế, nhất là các quốc gia đã và đang thực hiện thành công kinh tế tuần hoàn, từ đó chuyển giao và áp dụng vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam. Các mô hình kinh tế tuần hoàn gắn với công nghệ cao và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, do vậy cần có cơ chế, chính sách cho phát triển công nghệ sạch, tái sử dụng, tái chế chất thải, chất thải phải trở thành nguồn tài nguyên trong nền kinh tế xét cả khía cạnh sản xuất và tiêu dùng.
Thực hiện phát triển kinh tế tuần hoàn cần có lộ trình và ưu tiên trong phát triển dựa trên nhu cầu thị trường và đòi hỏi của xã hội. Đối với Việt Nam, ưu tiên trước hết là chất thải nhựa và túi ni-lon phải thực hiện và đưa vào kế hoạch 5 năm tới để giải quyết triệt để, giảm thiểu tối đa phát thải ra môi trường dựa trên cơ sở phát triển kinh tế tuần hoàn.
Vấn đề cần phải giải quyết ngay đối với Việt Nam là phân loại rác tại nguồn và rác sau khi phân loại phải được thu gom, làm sạch, vận chuyển đưa vào tái sử dụng, tái chế. Phân loại rác tại nguồn phải trở thành yêu cầu bắt buộc, tiêu chí đánh giá văn hóa đối với người dân.
Tóm lại, để phát triển kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam cần phải hiểu rõ bản chất và luận cứ được cách thức phát triển này. Để phát triển kinh tế tuần hoàn cần tổng kết, đánh giá những mô hình phát triển đã có đối với các ngành, lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ, từ đó nhận dạng những cách thức phát triển gần với tiếp cận kinh tế tuần hoàn làm cơ sở để phát triển theo những tiêu chí của kinh tế tuần hoàn. Cần nhận thức được những cơ hội để tận dụng các cơ hội này, mặt khác cũng phải thấy được những thách thức đối với phát triển kinh tế tuần hoàn sẽ gặp phải để có biện pháp khắc phục.
* “Đây là bài viết tuyên truyền bảo vệ môi trường của Bộ Thông tin và Truyền thông năm 2020” |