Tiềm năng giảm phát thải khí mê-tan trong năng lượng và công nghiệp
| Kiểm soát khí mê-tan góp phần tạo ra nguồn năng lượng tái tạo giá trị "Vũ khí" giúp nhà nông giảm khí mê-tan, tăng lợi nhuận Mê-tan: "Quả bom" ẩn giấu từ rác thực phẩm |
Năng lượng và quá trình công nghiệp có thể giảm hơn 36% lượng phát thải
Theo kế hoạch giảm nhẹ phát thải khí nhà kính lĩnh vực năng lượng và quá trình công nghiệp đến năm 2025 và giai đoạn 2026 - 2030 được Bộ Công thương phê duyệt tháng 9/2024, Bộ Công thương đặt mục tiêu đến năm 2025, khi có hỗ trợ của quốc tế giảm ít nhất 36,4% phát thải khí nhà kính so với kịch bản phát triển thông thường, tương ứng với 160,5 triệu tấn CO₂tđ. Đến năm 2030, khi có hỗ trợ thêm của quốc tế giảm khoảng 34,8% phát thải khí nhà kính so với kịch bản phát triển thông thường, tương ứng với 213,7 triệu tấn CO₂tđ trong lĩnh vực năng lượng và quá trình công nghiệp.
Theo đánh giá, lĩnh vực năng lượng, đặc biệt là khai thác than và dầu khí, là "mặt trận then chốt" với tiềm năng giảm phát thải mê-tan rất lớn. Dù phát thải mê-tan từ lĩnh vực này chỉ chiếm khoảng 15% tổng phát thải quốc gia (năm 2020 đạt 16,95 triệu tấn CO₂tđ) nhưng đây lại là nguồn có rủi ro cao về an toàn và môi trường, đồng thời có thể giảm mạnh nếu tận dụng tốt công nghệ.
Trong khai thác than hầm lò, khí mê-tan được giải phóng từ các vỉa than trong quá trình đào lò, thông gió và vận hành. Theo các chuyên gia, mỗi tấn than khai thác có thể giải phóng từ 5-25m³ khí mê-tan, tùy điều kiện địa chất. Với sản lượng than hầm lò hàng chục triệu tấn mỗi năm, lượng mê-tan thất thoát là đáng kể.
ThS. Nguyễn Thị Thu Huyền, Viện Năng lượng, Bộ Công thương đã cảnh báo, trong khai thác than hầm lò, khí mê-tan thoát ra từ quá trình khai thác và thông gió là nguồn phát thải lớn và tiềm ẩn nguy cơ cháy nổ. Nếu không được thu gom, đây là lãng phí và rủi ro. Áp dụng công nghệ thu hồi khí mỏ than vừa giúp bảo đảm an toàn, vừa tạo ra năng lượng sạch.
![]() |
| Tại mỏ than, mê-tan tích tụ ở trên nóc lò trong quá trình khai thác khoáng sản |
Đối với khai thác dầu khí, TS. Lương Quang Huy, Trưởng phòng Quản lý phát thải khí nhà kính và Bảo vệ tầng ozone, Cục Biến đổi khí hậu (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) chỉ rõ, ngành dầu khí có tiềm năng giảm phát thải lớn thông qua việc giảm đốt bỏ và thông khí, đồng thời triển khai công nghệ phát hiện và sửa chữa rò rỉ (LDAR) để kiểm soát thất thoát trên toàn hệ thống.
Ngoài năng lượng, các quá trình công nghiệp cũng là nguồn phát thải khí nhà kính đáng kể và có tiềm năng giảm lớn. Tiềm năng giảm phát thải đến từ việc thu hồi năng lượng từ nhiệt thải, tối ưu hóa quá trình đốt, sử dụng thiết bị hiệu suất cao (lò hơi, đèn chiếu sáng, máy nén khí, động cơ điện), lắp đặt biến tần và triển khai hệ thống quản lý năng lượng. Các công nghệ sản xuất sạch, hàm lượng carbon thấp được khuyến khích áp dụng để giảm phát thải và nâng cao khả năng cạnh tranh.
Trong sản xuất sắt thép, xi măng, việc cải thiện công nghệ, sử dụng nguyên/nhiên liệu thay thế để giảm clinker và tiết kiệm năng lượng là rất quan trọng. Đồng thời, thu hồi, tái sử dụng các khí nhà kính công nghiệp như HFCs, PFCs, SF6 và N2O, đặc biệt trong ngành điện lạnh và sản xuất chất bán dẫn, cũng mang lại tiềm năng đáng kể.
Việc đẩy mạnh sử dụng năng lượng tái tạo như điện mặt trời, điện gió và thủy điện trong các ngành công nghiệp sẽ góp phần giảm sự phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch, qua đó gián tiếp giảm phát thải khí mê-tan.
Cần có sự tham gia đồng bộ
Để hiện thực hóa mục tiêu giảm phát thải khí mê-tan nói chung và 2 lĩnh vực năng lượng và công nghiệp nói riêng cần có sự tham gia đồng bộ của các bộ, ngành, viện nghiên cứu, doanh nghiệp và cộng đồng.
Việc xây dựng và thực thi kế hoạch hành động quốc gia về giảm phát thải khí mê-tan cần gắn với các chương trình phát triển Nông thôn mới, chương trình tăng trưởng xanh, chương trình mục tiêu quốc gia về biến đổi khí hậu và các chính sách hỗ trợ đổi mới công nghệ. Đặc biệt, cần huy động nguồn lực tài chính xanh bao gồm cả vốn ngân sách, ODA, vốn đầu tư tư nhân và các cơ chế tài chính khí hậu quốc tế như Quỹ Khí hậu xanh (GCF) và Quỹ Môi trường toàn cầu (GEF).
Chia sẻ về những hành động của Việt Nam để hiện thực hóa mục NetZero vào năm 2050, ông Lương Quang Huy, Trưởng phòng Quản lý phát thải khí nhà kính và Bảo vệ tầng ozone, Cục Biến đổi khí hậu, cho biết, cần có các giải pháp tăng cường tài chính khí hậu, huy động các nguồn lực tài chính, tiếp cận tài chính xanh thông qua tín dụng xanh, phát hành trái phiếu xanh; phát triển thị trường carbon, từng bước tham gia vào thị trường carbon thế giới.
Cụ thể, trong lĩnh vực năng lượng, Việt Nam đã phê duyệt Quy hoạch điện VIII điều chỉnh, nhằm giảm dần sự phụ thuộc vào năng lượng hóa thạch và đẩy mạnh phát triển năng lượng tái tạo như điện gió, điện mặt trời và sinh khối. Đồng thời, áp dụng các giải pháp nâng cao hiệu quả và tiết kiệm năng lượng trong hoạt động công nghiệp, giao thông vận tải và xây dựng. Các công nghệ sản xuất sạch với hàm lượng carbon thấp được khuyến khích để giảm phát thải, nâng cao khả năng cạnh tranh doanh nghiệp trên thị trường.
![]() |
| Năng lượng và công nghiệp là "những mặt trận then chốt" mà Việt Nam có thể tận dụng để cắt giảm khí mê-tan |
Trong công nghiệp, sản xuất sắt thép, xi măng đã cải thiện công nghệ sản xuất, áp dụng công nghệ mới để giảm phát thải khí nhà kính. Các doanh nghiệp cũng dần đẩy mạnh sử dụng nguyên, nhiên liệu thay thế để giảm lượng clinker trong sản xuất xi măng và tiết kiệm năng lượng. Quá trình công nghiệp và sử dụng sản phẩm sẽ áp dụng công nghệ tốt nhất để giảm phát thải trong quy trình sản xuất các ngành lĩnh vực như sản xuất hóa chất, thép, sử dụng môi chất lạnh thân thiện với khí hậu.
Với các doanh nghiệp, ông Huy nhấn mạnh, yếu tố quan trọng nhất là nhận thức về sự tồn tại bền vững gắn bó chặt chẽ với ứng phó biến đổi khí hậu và giảm phát thải khí nhà kính. Tiêu chí ESG đã trở thành yếu tố cốt lõi trong văn hóa phát triển của doanh nghiệp; trong đó giảm phát thải khí nhà kính và ứng phó với biến đổi khí hậu trở thành một tiêu chí quan trọng. Văn hóa này đang lan tỏa trong hệ sinh thái, chuỗi cung ứng của các tập đoàn, doanh nghiệp lớn.
TS Hà Quang Anh, Quyền Giám đốc Trung tâm thích ứng biến đổi khí hậu và Trung hòa carbon, khẳng định, chuyển đổi xanh không chỉ là tuân thủ mà là một chiến lược sống còn để giữ chân khách hàng và đảm bảo các đơn hàng xuất khẩu giá trị cao. Dù có rào cản về chi phí và kỹ thuật nhưng cơ hội tiếp cận tài chính xanh, nâng cao năng lực cạnh tranh và tối ưu hóa chi phí là rất lớn.
Lĩnh vực năng lượng và các quá trình công nghiệp có thể coi là "những mặt trận then chốt" mà Việt Nam có thể tận dụng để cắt giảm hàng chục triệu tấn CO₂tđ mỗi năm. Mặc dù đối mặt với thách thức về chi phí công nghệ, chính sách chưa rõ ràng và thiếu dữ liệu minh bạch nhưng với quyết tâm chính trị mạnh mẽ, sự hỗ trợ quốc tế và các cơ chế khuyến khích phù hợp, Việt Nam hoàn toàn có thể biến mê-tan từ "gánh nặng môi trường" thành nguồn lực năng lượng sạch, đảm bảo an ninh năng lượng và thực hiện thành công cam kết NetZero vào năm 2050.
| Khí mê-tan (CH4) là một loại khí nhà kính có khả năng làm toàn cầu nóng lên cao gấp 28 lần so với khí CO2 trong khoảng thời gian 100 năm. Dù tồn tại trong bầu khí quyển ngắn hơn CO2 nhưng CH4 lại có tác động mạnh mẽ hơn trong việc giữ nhiệt. Theo các nghiên cứu của Ủy ban Liên chính phủ về biến đổi khí hậu (IPCC), trong mức tăng nhiệt độ toàn cầu 1,1 độ C hiện nay, có khoảng 0,3 độ C là do khí mê-tan gây ra. |
Tin liên quan
Cùng chuyên mục
Đọc thêm
Môi trường
Lan tỏa thông điệp “Không khí sạch cho bầu trời xanh”
Môi trường
Lâm Đồng: Mưa lũ gây thiệt hại ước tính hơn 87 tỷ đồng
Môi trường
Phó Thủ tướng Hồ Quốc Dũng chỉ đạo 6 nhóm nhiệm vụ trọng tâm
Môi trường
Thông báo Kết luận của Bộ Chính trị về khắc phục hậu quả do bão số 12 gây ra
Môi trường
Hơn 7.000 túi an sinh kịp thời đến vùng bị cô lập sau lũ
Môi trường
Khẩn cấp hỗ trợ các địa phương miền Trung khắc phục hậu quả mưa lũ
Môi trường
Tuổi trẻ TP Huế đồng loạt ra quân dọn vệ sinh sau lũ
Xã hội
Thời tiết ngày 31/10: Không khí lạnh tăng cường
Môi trường
Khẩn trương khắc phục hậu quả mưa lũ, sớm ổn định đời sống Nhân dân
Môi trường




