Đảm bảo chất lượng nguồn nước và vệ sinh môi trường cho người dân sau lũ
Nhiều địa phương khó khăn trong việc tiếp cận nguồn nước sạch, an toàn
Phát biểu khai mạc Tọa đàm, Nhà báo Khánh Toàn, Tổng Biên tập Tạp chí Môi trường và Cuộc sống chia sẻ: Nước sạch và vệ sinh môi trường luôn được coi là yếu tố mang tính chất sống còn đối với mỗi quốc gia, đặc biệt trong cuộc chiến chống biến đổi khí hậu. Bởi lẽ, cứ mỗi mùa mưa lũ qua đi, không những cướp đi người và của cải vật chất, rất nhiều địa phương còn đứng trước nguy cơ thiếu nước sạch và vấn đề vệ sinh môi trường.
Toàn cảnh buổi tọa đàm |
Đánh giá về thực trạng khai thác và sử dụng tài nguyên nước hiện nay cũng như việc khan hiếm và khó khăn về nguồn nước tại các địa phương thường xuyên chịu ảnh hưởng của thiên tai, ông Nguyễn Minh Khuyến, Phó Cục trưởng Cục Quản lý tài nguyên nước (Bộ Tài nguyên và Môi trường) cho biết: Việt Nam đang phải đối mặt chỗ quá thừa chỗ quá thiếu, chỗ quá bẩn. Thực tế, nước ta có khoảng 840 tỷ m3 nước/ năm. Tuy nhiên, nhu cầu về sử dụng phân bổ không đồng đều giữa các vùng, nguồn nước mà có thể khai thác được cũng không thể đồng đều giữa các vùng cũng như là các mùa.
Hiện nay, một số địa phương vẫn còn khó khăn trong việc tiếp cận nguồn nước sạch, an toàn. Trong đó, một số tỉnh điển hìnhnhư: tỉnh Sơn La với trữ lượng nước mặt khoảng 19 tỷ m3/năm, tuy nhiên một số vùng thuộc huyện Mộc Châu vẫn thiếu nước nghiêm trọng. Vùng miền núi phía Tây tỉnh Nghệ An người dân cũng đang thiếu nước cho sản xuất và sinh hoạt. Tại tỉnh Hà Tĩnh mặc dù lượng nước nhiều nhưng hàng năm vẫn thiếu khoảng 95 triệu m3 nước cho sản xuất và sinh hoạt.
ThS. Nguyễn Thị Bích Thủy, Phó trưởng khoa Sức khỏe môi trường và cộng đồng - Viện Sức khỏe nghề nghiệp và môi trường (Bộ Y tế) |
Nói về về chất lượng nước sinh hoạt và vệ sinh môi trường của người dân vùng lũ hiện nay, ThS. Nguyễn Thị Bích Thủy, Phó trưởng khoa Sức khỏe môi trường và cộng đồng - Viện Sức khỏe nghề nghiệp và môi trường (Bộ Y tế) cho hay: Thực hiện chức năng nhiệm vụ do Bộ Y tế giao, Viện Sức khỏe nghề nghiệp và môi trường đã kiểm tra, giám sát việc thực hiện đảm bảo chất lượng nước các địa phương, trong đó có địa phương xảy ra bão lũ.
Kết quả năm 2021 tại 32 tỉnh, thành phố phía Bắc và một số tỉnh miền trung cho thấy hầu hết nước sạch cung cấp cho người dân theo mô hình cấp nước tập trung đều đảm bảo theo quy chuẩn Việt Nam và an toàn cho người sử dụng, một số ít mẫu nước không đạt chỉ tiêu về clo dư tự do; Chỉ số pecmanganat, độ đục, coliforms và E.coli...
Tuy nhiên, trong mùa bão lũ, chất lượng nước máy (mô hình cấp nước tập trung) có thể bị ảnh hưởng ít nhiều. Đặc biệt chỉ tiêu về độ đục và vi sinh vật. Do vậy, trong thời điểm này các đơn vị cung cấp nước cần phải tăng cường bảo vệ nguồn nước nguyên liệu và giám sát chặt chẽ trong quá trình vận hành hệ thống xử lý nước.
Tiến sĩ Nguyễn Thế Đồng – Phó Chủ tịch Hội Nước sạch và Môi trường Việt Nam |
Với nhìn nhận của mình, Tiến sĩ Nguyễn Thế Đồng, Phó Chủ tịch Hội Nước sạch và Môi trường Việt Nam cho biết: Không chỉ ở Việt Nam mà trên thế giới trong những năm gần đây thời tiết cực đoan ngày càng trở nên thường xuyên hơn. Đánh giá về nguyên nhân sâu xa, đây là tác động của biến đổi khí hâu gây nên hiện tượng thời tiết cực đoan, thực tế hàng năm nhiều vùng đối mặt hoặc là lũ lụt hay hạn hán chưa từng có, chúng ta đối mặt với những đợt mưa lũ lịch sử, hạn hán lịch sử. Làm sao để khắc phục hậu quả này chúng ta phải ngày càng quan tâm hơn về tác động của biến đổi khí hậu.
Trao đổi về kịch bản cho từng vùng trong trường hợp thiếu nước sạch, Ông Nguyễn Thành Luân, Phó Giám đốc Trung tâm Quốc gia Nước sạch và Vệ sinh môi trường nông thôn, Tổng cục Thủy lợi (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) cho biết: Các địa phương cần hướng dẫn cách bảo quản các công trình cấp nước tập trung và cấp nước hộ gia đình cũng như xử lý nước vùng lũ, công trình cấp nước vùng hạn hán, để giải quyết nhanh chóng nguồn nước hợp vệ sinh trong mưa lũ và hạn hán.
Ông Nguyễn Thành Luân - Phó Giám đốc Trung tâm Quốc gia Nước sạch và Vệ sinh môi trường nông thôn, Tổng cục Thủy lợi (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) |
Về lâu dài, cần có các giải pháp đồng bộ, trước hết muốn có nước cần có nguồn nước đảm bảo. Ví dụ, các vùng hạn hán cần có các hồ chưa nước thủy lợi và hồ chứa nước phục vụ dân sinh, để khi xảy ra hạn hán hay mưa lũ, nguồn nước bị cạn kiệt hoặc bị ô nhiễm thì có nguồn nước dự trữ để xử lý. Tuy nhiên vấn đề đặt ra là để giải quyết được thực trạng này cần nguồn kinh phí lớn. Vì vậy, chúng tôi đề xuất trong thiết kế công trình cấp nước phải tính toán đến yếu tố biến đổi khí hậu.
Đảm bảo nguồn cung cấp và quản lý bền vững tài nguyên nước
Trao đổi tại buổi Tọa đàm, ông Nguyễn Minh Khuyến cho biết: Mục tiêu phát triển bền vững “Đảm bảo nguồn cung cấp và quản lý bền vững tài nguyên nước và các điều kiện vệ sinh an toàn cho tất cả mọi người” (SDG6) đến năm 2030 có 6 mục tiêu SDGs.
Để bảo đảm an ninh nguồn nước và hướng tới thực hiện các mục tiêu SDG6, ở Việt Nam hiện tại cũng như trong thời gian sắp tới và lâu dài, tại Kết Luận số 36-KL/TW của Bộ Chính trị, nhiệm vụ ngắn hạn có, dài hạn cũng có, đảm bảo cấp nước, số lượng chất lượng nước cho sinh hoạt cho sản xuất là mục tiêu ở trong Kết luận này và trong Đại hội Đảng XIII cũng đề cập, đến năm 2030, 100% dân số đô thị và 80% dân số nông thôn được sử dụng nước đảm bảo an toàn đó là mục tiêu cụ thể.
Trong Kết luận số 36-KL/TW của Bộ Chính trị cũng đã chỉ rõ trách nhiệm của các bộ ngành về nâng cao chất lượng về quy hoạch, giám sát các quy hoạch đây là những nhiệm vụ rất cần thiết đã được chỉ ra trong kết luận này. Ngoài ra, trong phòng chống giảm thiểu tác hại do nước gây ra như ngập lụt, hạn hán, ô nhiễm đó là những nhiệm vụ chúng ta đã, đang làm và cần phải giám sát chặt chẽ hơn.
Ông Nguyễn Minh Khuyến - Phó Cục trưởng Cục Quản lý tài nguyên nước (Bộ Tài nguyên và Môi trường) |
Đối với lĩnh vực tài nguyên nước mà Bộ Tài nguyên và Môi trường đang quản lý, những nhiệm vụ của Kết luận số 36-KL/TWcủa Bộ Chính trị cũng như các chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, Bộ Tài nguyên và Môi trường dự thảo Luật Tài nguyên nước (sửa đổi), những chỉ đạo của Đảng, Nhà nước được cập nhật vào trong Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) nhằm đảm bảo an ninh tài nguyên nước.
Cần có nhiều các giải pháp để tập trung giải quyết vấn đề để các hộ dân vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa đặc biệt các vùng hay bị thiên tai như lũ lụt hạn hán được sử dụng nguồn nước hợp vệ sinh và đảm bảo sức khỏe, ông Nguyễn Thành Luân cho biết, về cụ thể Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đang hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, ví dụ xây dựng Nghị định cũng như Thông tư hướng dẫn triển khai thực hiện về cung cấp nước sạch và vệ sinh nông thôn.
Nói về công tác phòng chống thiên tai, đảm bảo công tác khám chữa bệnh và phòng chống dịch bệnh trong tình trạng ngập lụt kéo dài, ThS. Nguyễn Thị Bích Thủy cho biết: Ngay từ khi chuẩn bị bước vào mùa mưa bão, Bộ Y tế đã có văn bản yêu cầu Sở Y tế các tỉnh, thành phố và các đơn vị trực thuộc Bộ chủ động ứng phó với thiên tai những tháng cuối năm. Luôn có kế hoạch ứng phó và diễn tập để chuẩn bị sẵn sàng với các tình huống xảy ra.
Nhà báo Khánh Toàn – Tổng Biên tập Tạp chí Môi trường và Cuộc sống tặng hoa cho các khách mời tham dự tọa đàm |
Ngành y tế sẵn sàng cung ứng đủ thuốc thiết yếu/vật tư y tế, phương tiện cấp cứu, truyền thông phòng chống dịch bệnh và các tai nạn có thể xảy ra như điện giật, đuối nước... Duy trì phòng chống dịch COVID-19, sốt xuất huyết và các bệnh truyền nhiễm khác và đặc biệt chú ý đến công tác chăm sóc sức khỏe cho người dân trong vùng bị chia cắt. Dự trữ và cung cấp đầy đủ hóa chất làm trong và khử khuẩn nước cho từng hộ gia đình ở những vùng trọng điểm để xử lý môi trường và nguồn nước khi có mưa, bão, lũ lụt xảy ra.
Còn theo Tiến sĩ Nguyễn Thế Đồng, lũ lụt, hạn hán liên quan đến vấn đề nước sạch là vấn đề kéo dài, để có thể có những kế hoạch phòng chống và nâng cao nhận thức cộng đồng, trước hết vai trò của cơ quan truyền thông rất quan trọng chúng ta đã và đang tuyên truyền kết hợp cơ quan khác nhau để đảm bảo hiệu quả. Hiện nay, nhận thức cơ bản dân cư tập trung tại đô thị đã được nâng cao, vấn đề ô nhiễm nguồn nước ở các vùng nông thôn miền núi chúng ta cần quan tâm hơn nữa.
Theo đó, từ cấp Trung ương ứng phó thiên tai, những vùng nào dễ bị ngập lụt, có những phần mềm theo dõi tình trạng ngập lụt, trên cơ sở dự báo, từ cấp chính quyền địa phương đến người dân có những kế hoạch cơ bản để ứng phó khi xảy ra mưa lũ, khi đó người dân sẽ chủ động hơn. Ứng phó lũ lụt đảm bảo nâng cao nhận thức là một phần, cần sự đồng bộ từ các ngành, các cấp chung tay để đảm bảo chất lượng nước sạch và vệ sinh môi trường vào mùa mưa lũ.