Hà Nội với Chiến dịch Điện Biên Phủ
Đập tan âm mưu "lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt"
Sau những thất bại liên tiếp trên chiến trường Đông Dương, giữa năm 1953, thực dân Pháp chủ trương xây dựng Điện Biên Phủ thành cứ điểm mạnh nhất.
Tướng Nava, Tổng Chỉ huy quân đội Pháp ở Đông Dương đề ra kế hoạch với nội dung chính là: Tăng cường lực lượng quân sự, tiếp tục chính sách “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt” với quy mô rộng lớn nhằm giành thắng lợi quyết định trong vòng 18 tháng.
Một trong những nội dung quan trọng của kế hoạch Nava là tăng cường “bình định” và phòng ngự ở đồng bằng Bắc Bộ, bằng mọi cách bảo vệ bằng được khu then chốt Hà Nội, Hải Phòng và hệ thống đường bộ, đường sắt nối hai thành phố này, từ đó cải thiện tình hình quân sự ở Bắc Bộ.
Bộ Chỉ huy chiến dịch dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Ðại tướng Võ Nguyên Giáp đang bàn kế hoạch tác chiến cho từng trận đánh. Ảnh TTXVN |
Trong kế hoạch này, Hà Nội được xác định là trọng điểm trong hệ thống phòng ngự của Pháp ở đồng bằng Bắc Bộ. Tại Hà Nội, Nava bố trí một bộ phận quan trọng lực lượng dự bị cơ động chiến lược tới hàng vạn tên sẵn sàng chi viện, ứng cứu cho các chiến trường. Ngoài ra, Hà Nội còn là trung tâm chỉ huy của địch ở chiến trường Bắc Đông Dương; là “kho người, kho của” rất quan trọng của địch.
Để làm thất bại âm mưu, thủ đoạn mới địch, tháng 4/1953, Hội nghị Ban Chấp hành Đảng bộ Hà Nội quyết định: Trên cơ sở tích cực xây dựng và phát triển lực lượng, đẩy mạnh hơn nữa phong trào chống bắt lính, chống thu thuế, chống thất nghiệp… phải chú ý đẩy mạnh các hoạt động phá hoại địch về quân sự.
Thực hiện quyết định của hội nghị, Ban Chỉ huy Mặt trận Hà Nội chỉ đạo các cơ quan, đơn vị, nhất là các cơ quan tuyên giáo, quân báo, tranh thủ các cơ sở hợp pháp trong nội thành phát động công nhân đẩy mạnh các hoạt động đấu tranh với địch như: Tăng lương cho công nhân thêm 20% và công chức 15%; nông dân làm đơn đòi miễn thuế đảm phụ quốc phòng, không nộp đảm phụ hương dũng, không mua vé xổ số; tố cáo tội ác, tội ăn hối lộ, hà hiếp dân của bọn tay sai, buộc địch phải bỏ tù một số tên tề, mật vụ, chỉ điểm gian ác để trấn an tinh thần Nhân dân.
Để bổ sung quân số ngày càng thiếu hụt cho các mặt trận, địch tăng cường bắt thanh niên đi lính. Vì vậy, ta đã vận động quần chúng đấu tranh bằng các hình thức: Không khai, không trình diện; phát động phong trào "ba trốn" trong thanh niên: Trốn tại chỗ, trốn về quê và trốn ra vùng tự do. Cuộc đấu tranh của Nhân dân Hà Nội đã làm cho nhiều đợt bắt đi lính của địch không thu được kết quả như mong muốn. Trong khi đó, hàng nghìn thanh niên được ta giác ngộ hoặc được các đoàn thể của ta giúp đỡ đưa ra vùng tự do an toàn.
Cùng với chống bắt đi lính, Ban Chỉ huy Mặt trận Hà Nội tập trung chỉ đạo công tác địch vận; tuyên truyền vận động đòi giải ngũ, không ra trận, bỏ về quê, hoặc theo kháng chiến... với ngụy binh và “Đòi hòa bình, hồi hương” đối với lính Âu - Phi. Kế hoạch bắt thanh niên đi lính, xây dựng đội quân ngụy mạnh của Nava cơ bản bị phá sản.
Đẩy mạnh đấu tranh về mọi mặt
Đông Xuân 1953-1954, Kế hoạch Nava bộc lộ nhiều nhược điểm nghiêm trọng. Chiến tranh du kích ở Đồng bằng Bắc Bộ tiếp tục phát triển mạnh mẽ khiến địch phải tăng quân đối phó khắp nơi. Mâu thuẫn giữa tập trung quân để xây dựng lực lượng cơ động mạnh với việc "bình định" giữ đất, giữ dân thêm gay gắt, thực dân Pháp ngày càng lúng túng bị động.
Trước tình hình đó, Trung ương Đảng quyết định đập tan Kế hoạch Nava, đánh bại âm mưu mở rộng chiến tranh của thực dân Pháp bằng Kế hoạch tác chiến Đông Xuân 1953-1954; chủ động mở một loạt chiến dịch đánh địch ở Tây Bắc, Thượng Lào, Trung Lào, Hạ Lào, Tây Nguyên, nhằm phá vỡ khối cơ động chiến lược của Nava, đồng thời tập trung toàn lực cho trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ.
Tranh thủ thuận lợi, quân và dân Hà Nội đẩy mạnh đấu tranh về mọi mặt, các phong trào chống thuế của tiểu thương, thợ thủ công; đòi tăng lương trong công nhân; đòi dùng tiếng Việt, đòi dạy lịch sử Việt Nam trong trường học… không ngừng phát triển.
Đầu tháng 3/1954, trong khi tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ đang bị ta bao vây và chuẩn bị nổ súng tiêu diệt, Mặt trận Hà Nội quyết định đánh sân bay Gia Lâm. Kết quả ta tiêu diệt 16 tên địch, phá hủy 18 máy bay, gồm: 5 chiếc B26, 10 chiếc Đacôta, 3 chiếc chở khách; đốt phá một nhà sửa chữa máy bay, một kho xăng, hoạt động của sân bay trong nhiều ngày tiếp theo bị đình trệ, góp phần làm gián đoạn cầu hàng không, gây nhiều khó khăn cho địch trong việc tiếp tế, ứng cứu tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ.
Tiếp tục chia lửa với mặt trận Điện Biên Phủ, chiều 4/4/1954, quân và dân huyện Gia Lâm đánh thắng một trận vang dội trên đường 5, lật nhào một đoàn tàu 13 toa chở quân lương, quân trang và vũ khí của địch từ Hải Phòng về Hà Nội. Cuối tháng 4/1954, công nhân Sở binh lương Hà Nội đốt kho làm cháy hàng nghìn chiếc dù gây cho địch nhiều khó khăn trong việc tiếp tế cho Điện Biên Phủ.
Các chiến sĩ tổ mũi nhọn đánh sân bay Gia Lâm đêm mùng 3, rạng sáng 4/3/1954. Ảnh tư liệu |
Trước thất bại liên tiếp của địch ở Điện Biên Phủ, Hà Nội đã tập trung đẩy mạnh công tác địch vận, tuyên truyền tin chiến thắng của ta, tán phát hàng vạn giấy thông hành, truyền đơn kêu gọi binh lính địch đào ngũ trở về nhà. Nhiều tên tự thương để được ở lại Hà Nội hoặc trốn về với gia đình. Nhiều đơn vị địch vừa đi càn ở đồng bằng về thoái thác tập thể, lấy cớ “không được nghỉ ngơi để không đi”… đã có tác dụng kìm hãm lực lượng địch ở hậu phương, gây nhiều khó khăn cho địch trong việc ứng cứu, chi viện cho mặt trận Điện Biên Phủ.
Có thể nói, cuộc đấu tranh của quân và dân Hà Nội trên các mặt trận chính trị, kinh tế, quân sự, địch vận, văn hóa trong Đông Xuân 1953-1954 không những làm thất bại ý đồ bảo vệ khu vực then chốt Hà Nội của địch, mà còn làm phá sản âm mưu “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt” của thực dân Pháp; không cho địch rảnh tay ứng cứu, chi viện cho chiến trường Điện Biên Phủ.
Bằng các phương thức đấu tranh linh hoạt, quân và dân Hà Nội đã góp phần quan trọng cùng với quân và dân cả nước làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ ngày 7/5/1954 “Lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”.