Thống đốc Nguyễn Thị Hồng: Áp lực điều hành chính sách tiền tệ thời gian tới là rất lớn
Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ làm việc về chính sách tài khóa và tiền tệ Mỹ và Việt Nam đồng thuận về chính sách tiền tệ Mỹ cáo buộc Việt Nam “thao túng tiền tệ” là chưa thực sự khách quan |
Sáng 12/11, Quốc hội tiếp tục phiên chất vấn và trả lời chất vấn nhóm vấn đề thuộc lĩnh vực kế hoạch và đầu tư, kế hoạch hỗ trợ phục hồi và phát triển kinh tế xã hội trong và sau đại dịch.
Tham gia trả lời, cho ý kiến thêm về các vấn đề liên quan, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Thị Hồng cho biết, đại dịch Covid -19 tác động nghiêm trọng đối với tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, người dân.
Trong bối cảnh đó, Ngân hàng Nhà nước thời gian qua thực hiện các chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ cũng đã là một trong những bộ, ngành vào cuộc rất trách nhiệm.
Ngay từ đầu năm 2020 khi đại dịch Covid-19 xảy ra, trong tổ chức điều hành về lãi suất, Ngân hàng Nhà nước đã giảm 3 lần lãi suất điều hành với tổng mức giảm từ 1,5-2%, đây là mức giảm sâu so với các nước trong khu vực.
Ngoài việc điều hành lãi suất của ngân hàng Trung ương,Ngân hàng Nhà nước cũng đã chỉ đạo, kêu gọi các tổ chức tín dụng thực hiện giảm các mức lãi suất đối với cả khoản cho vay cũ, cho vay mới. Mặt bằng lãi suất cho vay giảm khoảng 1,66% so với trước dịch.
Luỹ kế từ 23/1/2020 đến nay, tổng số tiền lãi các tổ chức tín dụngmiễn, giảm cho khách hàng bị ảnh hưởng bởi Covid-19 là khoảng gần 30.000 tỷ đồng. Các tổ chức tín dụng sẽ tiếp tục giảm lãi suất từ nay đến cuối năm 2021.
Bên cạnh đó, hệ thống ngân hàng cũng đã thực hiện giảm phí với mức giảm khoảng hơn 2.000 tỷ đồng đối với khách hàng. Việc giảm lãi suất đã giúp giảm chi phí đầu vào của doanh nghiệp và người dân.
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Thị Hồng. (Ảnh: Media Quốc hội) |
Đối với dư địa chính sách tiền tệ, có hai nhiệm vụ rất quan trọng là điều hành chính sách tiền tệ của ngân hàng Trung ương để góp phần kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ thực hiện tăng trưởng kinh tế nhưng không chủ quan với lạm phát.
Đồng thờì, với vai trò là huyết mạch của nền kinh tế, hệ thống các tổ chức tín dụng phải hoạt động làm sao đảm bảo an toàn, sẵn sàng khả năng chi trả cho người dân.
“Chính vì vậy, việc xem xét các giải pháp chính sách công cụ trong thời gian tới, Ngân hàng Nhà nước luôn luôn phải đảm bảo mục tiêu đạt được hai nhiệm vụ trên, đồng thời phải đảm bảo các cân đối lớn của vĩ mô như nợ công, bội chi ngân sách…”, Thống đốc nhấn mạnh.
Để xác định dư địa còn giảm lãi suất tiếp hay không, lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước cho biết, trong thời gian qua, khi đánh giá thực trạng hoạt động tiền tệ ngân hàng cũng như kinh tế vĩ mô, Ngân hàng Nhà nước thấy phía trước năm 2021 khả năng chỉ tiêu đạt được lạm phát dưới 4% theo mục tiêu Quốc hội đặt ra là có thể đạt được vì hiện nay đến hết tháng 10, lạm phát mới chỉ tăng 1,81% so với cùng kỳ năm trước.
Tuy nhiên trong năm 2022 rủi ro lạm phát đang có áp lực lớn. Thứ nhất, đối với các nền kinh tế của thế giới đã phục hồi khi chiến lược tiêm vắc xin bao phủ, bởi vậy giá cả hàng hóa trên thị trường thế giới có xu hướng gia tăng chỉ số mặt hàng giá (ví dụ giá xăng dầu trong tháng 9/2021 đã tăng 55,2% so với cuối năm trước…); các nước phát triển lạm phát đã tăng mức cao nhất trong lịch sử (với Mỹ lạm phát đã tăng 5,3% trong tháng 9 vừa qua).
Theo Thống đốc Nguyễn Thị Hồng, Việt Nam là nước có độ mở kinh tế lớn, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu/GDP là 200% nên có áp lực rủi ro của lạm phát nhập khẩu.
Xu hướng lạm phát tăng nhanh khiến nhiều ngân hàng Trung ương trên thế giới hiện đã và đang phải dừng, rút dần nới lỏng chính sách tiền tệ. Đến nay đã có 65 lượt tăng lãi suất trên thế giới. “Bởi vậy, áp lực lạm phát và áp lực điều hành chính sách tiền tệ trong thời gian tới nhìn từ tác động bên ngoài vào là rất lớn”, Thống đốc nói.
Đối với thị trường trong nước, nợ xấu của hệ thống các tổ chức tín dụng đang gia tăng, theo Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, thời gian qua, các ngân hàng giảm lãi suất bằng chính nguồn lực tài chính của mình chứ không phải tiền từ ngân sách. Khi nợ xấu gia tăng, bản thân các tổ chức tín dụng phải dùng nguồn lực tài chính của mình để xử lý nợ xấu.
Do đó, nếu để tình hình tài chính của các tổ chức tín dụng bị suy giảm lúc đó sẽ ảnh hưởng đến khả năng chi trả và an toàn của hệ thống. Theo Thống đốc, đây cũng chính là một trong những bài học kinh nghiệm rất lớn từ thời gian trước đây khi tăng trưởng tín dụng cao, chúng ta thực hiện các gói hỗ trợ lãi suất trong năm 2008, nếu không tính toán cẩn thận cũng đã có rủi ro lạm phát quay trở lại, như trong năm 2011 có thời điểm lên tới 18%.
Về điều hành chính sách tiền tệ thời gian tới, Thống đốc cho biết, Ngân hàng Nhà nước sẽ tiếp tục chỉ đạo toàn hệ thống ngân hàng tiết giảm chi phí hoạt động để tiếp tục giảm lãi suất. Tuy nhiên vẫn phải đảm bảo tỷ lệ an toàn của từng tổ chức tín dụng cũng như toàn hệ thống để những tránh tác động lan truyền.
Bên cạnh đó, Ngân hàng Nhà nước cũng sẽ tích cực phối hợp với các bộ, ngành như Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư để tính toán các gói hỗ trợ lãi suất với quy mô, phạm vi, liều lượng hợp lý trên cơ sở vẫn phải đảm bảo các ổn định kinh tế vĩ mô và phòng ngừa rủi ro lạm phát trong thời gian tới, cũng như phòng ngừa rủi ro đối với an toàn hoạt động của hệ thống ngân hàng.