Bộ Công thương chính thức trình Chính phủ Quy hoạch điện VIII
Theo Bộ Công thương, trong quá trình xây dựng Quy hoạch Điện VIII, bộ này đã tổ chức các cuộc hội thảo giữa kỳ, cuối kỳ và tiến hành tham vấn cộng đồng về nội dung đề án; gửi lấy ý kiến của UBMT Tổ quốc Việt Nam, 16 bộ và cơ quan, các tập đoàn, tổng công ty trong lĩnh vực năng lượng và 63 tỉnh thành phố trực thuộc Trung ương.
Kết quả, Bộ Công thương đã nhận được 681 ý kiến đóng góp, trong đó có ý kiến từ các bộ, ngành là 141, từ các đơn vị của Bộ Công thương là 89, từ các đơn vị hoạt động trong ngành điện là 254, từ UBND, Sở Công thương các tỉnh là 117 và tổ chức, cá nhận, chuyên gia là 80 ý kiến.
Tháng 3/2021, Bộ Công thương đã báo cáo Hội đồng thẩm định và trình Thủ tướng Chính phủ đề án Quy hoạch điện VIII.
Theo chỉ đạo của Thủ tướng và Phó Thủ tướng Lê Văn Thành, Bộ Công thương đã thực hiện rà soát, hoàn thiện đề án và tiếp tục lấy ý kiến các cơ quan đơn vị liên quan và đã nhận được thêm 157 ý kiến từ các bộ, cơ quan, 143 ý kiến của các tập đoàn tổng công ty…
Theo Bộ Công thương, đề án quy hoạch điện VIII được xây dựng trên cơ sở định hướng tại Nghị quyết 55-ND/TW ngày 11/2/2020 của Bộ Chính trị, trên cơ sở 3 quan điểm cốt lõi.
Tới năm 2045, nguồn năng lượng tái tạo (điện gió, điện mặt trời, điện sinh khối...) là 104.900-137.610MW chiếm tỷ lệ 40,1-41,7% |
Thứ nhất, phát triển điện lực đi trước một bước nhằm cung cấp đủ điện, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và nhu cầu điện cho sinh hoạt của Nhân dân.
Thứ hai, phát triển đồng bộ nguồn và lưới; thực hiện đầu tư phát triển điện lực cân đối giữa các vùng, miền trên cơ sở sử dụng hợp lý, có hiệu quả nguồn tài nguyên năng lượng sơ cấp của mỗi vùng miền; không xây dựng thêm các đường dây truyền tải điện liên miền giai đoạn 2021-2030; hạn chế tối đa việc xây dựng mới các đường dây tải điện liên miền giai đoạn 2031-2045.
Thứ ba, tiếp tục xem xét, phát triển thủy điện, năng lượng tái tạo và năng lượng mới (điện gió, điện mặt trời, điện sinh khối, điện rác…) với quy mô phù hợp. Xem xét lộ trình giảm các nguồn điện than, phát triển các nguồn điện khí LNG một các hợp lý; tăng cường nhập khẩu điện trên cơ sở tuân thủ các văn bản ghi nhớ đã cam kết.
Được biết, đề án Quy hoạch điện VIII được xây dựng nhằm mục tiêu đảm bảo cung cấp đủ nhu cầu điện trong nước, đáp ứng các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của cả nước với mức tăng GDP bình quân là khoảng 6,6%/năm trong giai đoạn 2021-2030 và khoảng 5,7%/năm trong giai đoạn 2031-2045.
Trong số các mục tiêu được đặt ra có việc ưu tiên khai thác, sử dụng hiệu quả các nguồn năng lượng tái tạo phục vụ sản xuất điện, tăng tỷ lệ điện năng sản xuất từ các nguồn năng lượng tái tạo đạt khoảng 11,9-13,4% vào năm 2030 và khoảng 26,5-28,4% và năm 2045.
Theo kế hoạch phát triển nguồn điện, năm 2025, tổng công suất các nhà máy điện khoảng 102.590-105.265MW. Trong đó, thủy điện đạt 25.323MW chiếm tỷ lệ 24,1-24,7%; nhiệt điện than 29.679MW chiếm tỷ lệ 28,2-28,9%; nhiệt điện khí (tính cả LNG) 14.117MW chiếm tỷ lệ 13,4-13,7%; nguồn năng lượng tái tạo ngoài thủy điện (điện gió, điện mặt trời, điện sinh khối, ...) 29.618-31.418MW chiếm tỷ lệ 28,9-29,8%; nhập khẩu điện 3.853-4.728MW chiếm tỷ lệ 3,7-4,5%.
Vào năm 2030, tổng công suất các nhà máy điện khoảng 130.371-143.839MW. Trong đó, thủy điện và thủy điện tích năng đạt 26.684-27.898MW chiếm tỷ lệ 19,4-20,5%; nhiệt điện than 40.899MW chiếm tỷ lệ 28,4-31,4%; nhiệt điện khí (tính cả LNG) 27.471-32.271MW chiếm tỷ lệ 21,1-22,4%; nguồn năng lượng tái tạo ngoài thủy điện (điện gió, điện mặt trời, điện sinh khối, ...) 31.380-37.030MW chiếm tỷ lệ 24,3-25,7%; nhập khẩu điện 3.936-5.742MW chiếm tỷ lệ 3-4%.
Tới năm 2045, tổng công suất các nhà máy điện khoảng 261.951-329.610MW. Trong đó, thủy điện và thủy điện tích năng đạt 35.677-41.477MW chiếm tỷ lệ 12,6-13,6%; nhiệt điện than 50.949MW chiếm tỷ lệ 15,4-19,4%; nhiệt điện khí (tính cả LNG) 61.683-88.533MW chiếm tỷ lệ 23,5-26,9%; nguồn năng lượng tái tạo ngoài thủy điện (điện gió, điện mặt trời, điện sinh khối, ...) 104.900-137.610MW chiếm tỷ lệ 40,1-41,7%; nhập khẩu điện 8.743-11.042MW chiếm tỷ lệ 3,3%.