Tag

Cải cách tiền lương: 4 lần cải cách, sửa đổi, vẫn còn nhiều bất cập

BHXH & Đời sống 19/05/2018 21:55
aa
TTTĐ- Chính sách tiền lương ở nước ta đã trải qua 4 lần cải cách (năm 1960, năm 1985, năm 1993 và năm 2003) nhưng đến nay vẫn còn rất nhiều bất cập.

Cải cách tiền lương: 4 lần cải cách, sửa đổi, vẫn còn nhiều bất cập

Chính sách tiền lương là một bộ phận đặc biệt quan trọng, quan hệ chặt chẽ với các chính sách khác trong hệ thống chính sách kinh tế - xã hội, liên quan trực tiếp đến các cân đối kinh tế vĩ mô, thị trường lao động và đời sống người hưởng lương, góp phần xây dựng hệ thống chính trị tinh gọn, trong sạch, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.

Chính sách tiền lương ở nước ta đã trải qua 4 lần cải cách (năm 1960, năm 1985, năm 1993 và năm 2003), trong đó cải cách chính sách tiền lương năm 1993 đã thực hiện đường lối đổi mới theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ và được tiếp tục điều chỉnh, cải cách từ năm 2003.

Cải cách tiền lương: 4 lần cải cách, sửa đổi, vẫn còn nhiều bất cập
Mức lương cơ sở còn thấp, chưa bảo đảm đời sống cho người hưởng lương. (Ảnh minh họa)

Trong quá trình thực hiện, Đảng và Nhà nước đã chỉ đạo ban hành nhiều văn bản điều chỉnh, bổ sung chính sách tiền lương. Nhà nước đã ban hành hệ thống chính sách, pháp luật về tiền lương theo nguyên tắc coi tiền lương là giá cả sức lao động hình thành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp sử dụng lao động có hiệu quả hơn, người lao động có việc làm, tiền lương, thu nhập ổn định, cải thiện đời sống.

Thực hiện Kết luận số 23-KL/TW ngày 29/5/2012 của Hội nghị Trung ương 5 và Kết luận số 63-KL/TW ngày 27/5/2013 của Hội nghị Trung ương 7 (khóa XI), nước ta đã từng bước hoàn thiện cơ chế quy định mức lương tối thiểu vùng và chế độ tiền lương của khu vực doanh nghiệp theo yêu cầu phát triển kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước; đã thực hiện nguyên tắc chỉ điều chỉnh mức lương cơ sở và ban hành chính sách, chế độ mới đối với khu vực công khi đã bố trí đủ nguồn lực, không ban hành mới các chế độ phụ cấp theo nghề, triển khai xây dựng danh mục vị trí việc làm tạo cơ sở cho việc trả lương…

Bên cạnh ưu điểm và kết quả đạt được, chính sách tiền lương của ta vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập. Chính sách tiền lương trong khu vực công phức tạp, thiết kế hệ thống bảng lương chưa phù hợp với vị trí việc làm, chức danh và chức vụ lãnh đạo, còn bình quân, cào bằng, chưa tạo được động lực để nâng cao hiệu quả làm việc của người lao động; quy định mức lương bằng hệ số nhân với mức lương cơ sở còn thấp hơn khu vực doanh nghiệp, chưa bảo đảm đời sống và chưa là nguồn thu nhập chính của người hưởng lương; có quá nhiều loại phụ cấp; tiền lương tính theo chế độ thấp nhưng có nhiều trường hợp các khoản thu nhập ngoài lương từ chi phí hoạt động hành chính chiếm tỷ lệ lớn trong tổng thu nhập của cán bộ, công chức.

Tiền lương trong các loại hình doanh nghiệp chưa phản ánh đúng quan hệ phân phối trong kinh tế thị trường, chưa tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế của đất nước; việc Nhà nước quy định một số nguyên tắc về xây dựng thang, bảng lương đã can thiệp vào quyền tự chủ tiền lương của doanh nghiệp; chưa phát huy được tác dụng của cơ chế thương lượng, định đoạt tiền lương giữa người sử dụng lao động và người lao động trong quan hệ lao động; cơ chế quản lý tiền lương đối với doanh nghiệp nhà nước chưa thực sự gắn tiền lương của người lao động với năng suất lao động và hiệu quả kinh doanh…

Những hạn chế, bất cập nêu trên có nguyên nhân khách quan từ nội lực của nền kinh tế còn yếu, đang trong quá trình chuyển đổi và hội nhập quốc tế từ nước nghèo trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình thấp; chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động, hiệu quả và sức cạnh tranh còn thấp; tích lũy còn ít, nguồn lực còn hạn chế, nợ công đã ở sát giới hạn cho phép, không còn nhiều dư địa chính sách, trong khi phải ưu tiên bố trí ngân sách cho đầu tư phát triển, bảo đảm an sinh xã hội, quốc phòng, an ninh…

Tuy nhiên, nhìn một cách nghiêm túc và bao quát, có thể khẳng định nguyên nhân chủ quan là chủ yếu. Tiền lương là vấn đề phức tạp, ảnh hưởng lớn đến nhiều mặt của đời sống xã hội, việc hoạch định, điều chỉnh chính sách rất khó và dễ phát sinh những bất hợp lý; việc thể chế hóa các chủ trương của Đảng về chính sách tiền lương còn chậm do tư duy đổi mới chưa theo kịp sự phát triển, còn tư tưởng bình quân, cào bằng; chưa có nghiên cứu toàn diện về chính sách tiền lương trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị còn cồng kềnh, hiệu lực, hiệu quả hoạt động chưa cao; số lượng đơn vị hành chính và đơn vị sự nghiệp công lập tăng nhanh, làm cho đối tượng hưởng lương, phụ cấp từ ngân sách Nhà nước quá lớn và ngày càng tăng.

Việc xác định vị trí việc làm còn chậm, chưa thực sự làm cơ sở để xác định biên chế và trả lương. Nguồn kinh phí được giao tự chủ trong tổng chi ngân sách Nhà nước cấp cho cơ quan, tổ chức, đơn vị chưa hợp lý, dẫn đến việc sử dụng các khoản chi hoạt động hành hành chính để bổ sung thu nhập cho cán bộ, công chức viên chức khá lớn và trở thành phổ biến.

Chưa phân biệt rõ chính sách tiền lương với chính sách bảo hiểm xã hội và chính sách ưu đãi người có công; việc điều chỉnh tiền lương gắn với điều chỉnh lương hưu và trợ cấp ưu đãi người có công dẫn đến thay đổi lộ trình của từng chính sách.

Chưa phân định rõ mối quan hệ giữa quản lý nhà nước và quản trị doanh nghiệp, giữa đại diện chủ sở hữu với ban hành điều hành doanh nghiệp trong quản lý, giám sát tiền lương tại doanh nghiệp.

Việc thanh tra, kiểm tra, giám sát, hệ thống thông tin thị trường lao động, tiền lương, năng lực thương lượng về tiền lương của người lao động trong ký kết hợp đồng lao động và việc phát huy vai trò của tổ chức công đoàn còn hạn chế.

Công tác hướng dẫn, tuyên truyền về chính sách tiền lương chưa tốt, dẫn đến việc xây dựng và thực hiện một số chính sách còn chưa tạo được đồng thuận cao, nhất là về việc đổi mới tổ chức, quản lý và cơ chế tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập gắn với chính sách hỗ trợ phù hợp cho các đối tượng chính sách và người nghèo trong thực hiện lộ trình tính đúng, tính đủ phí (giá) dịch vụ.


PGS.TS Nguyễn Thế Kỷ - Ủy viên Trung ương Đảng, Tổng Giám đốc Đài Tiếng nói Việt Nam





Theo VOV.VN

Tin liên quan

Đọc thêm

Củng cố “tấm lưới” an sinh cho lao động phi chính thức BHXH & Đời sống

Củng cố “tấm lưới” an sinh cho lao động phi chính thức

TTTĐ - Luật Thủ đô 2024 đã mở ra hành lang chính sách đặc thù, cho phép Hà Nội chủ động xây dựng cơ chế hỗ trợ mạnh mẽ hơn cho người dân. Điều 27 của Luật trao cho Hội đồng Nhân dân thành phố quyền quyết định các chính sách an sinh vượt trội so với khung chung của cả nước, tạo ra nền tảng để triển khai hỗ trợ tiền đóng BHXH tự nguyện và BHYT ở mức rất cao.
Tặng thẻ bảo hiểm y tế cho người có hoàn cảnh khó khăn Xã hội

Tặng thẻ bảo hiểm y tế cho người có hoàn cảnh khó khăn

TTTĐ - Hưởng ứng phong trào thi đua “Cả nước chung tay vì người nghèo - Không để ai bị bỏ lại phía sau” do Thủ tướng Chính phủ phát động, Bảo hiểm xã hội (BHXH) thành phố Hà Nội ban hành Kế hoạch phát động chương trình “Tặng thẻ bảo hiểm y tế (BHYT) cho người có hoàn cảnh khó khăn - Mang Tết ấm đến với người nghèo Xuân Bính Ngọ”.
Chuyển đổi số tạo bứt phát cải cách thủ tục bảo hiểm xã hội BHXH & Đời sống

Chuyển đổi số tạo bứt phát cải cách thủ tục bảo hiểm xã hội

TTTĐ - Chuyển đổi số trong lĩnh vực bảo hiểm xã hội đang tạo ra những chuyển biến mạnh mẽ tại Hà Nội, thể hiện rõ nét qua việc người dân có thể tham gia, thụ hưởng chế độ, chính sách BHXH, BHYT bằng hình thực trực tuyến qua Cổng Dịch vụ công Quốc gia, Cổng Dịch vụ công BHXH Việt Nam, ứng dụng VneID, VssID hoặc ứng dụng của một số ngân hàng bên cạnh hình thức trực tiếp tại các điểm giao dịch.
Mức đóng BHXH bắt buộc đối với chủ hộ kinh doanh BHXH & Đời sống

Mức đóng BHXH bắt buộc đối với chủ hộ kinh doanh

TTTĐ - Theo quy định, chủ hộ kinh doanh đóng BHXH, BHYT bắt buộc với mức 29,5% trên mức tiền lương tháng do chủ hộ chọn làm căn cứ đóng nhưng không thấp hơn mức tham chiếu (hiện bằng mức lương cơ sở) và không cao hơn 20 lần mức tham chiếu. Tỷ lệ 29,5% gồm: 22% đóng vào quỹ hưu trí, tử tuất; 3% vào quỹ ốm đau, thai sản; 4,5% vào quỹ BHYT.
Lan tỏa chính sách an sinh xã hội, chăm lo sức khỏe Nhân dân BHXH & Đời sống

Lan tỏa chính sách an sinh xã hội, chăm lo sức khỏe Nhân dân

TTTĐ - Thời gian gần đây, TP Hà Nội đã triển khai mạnh mẽ chính sách an sinh xã hội thông qua việc hỗ trợ mức đóng bảo hiểm y tế cho nhiều nhóm đối tượng. Các chính sách nhân văn này được cụ thể hoá khi HĐND TP Hà Nội thông qua Nghị quyết số 19/2025/NQ-HĐND, mở rộng phạm vi đối tượng và tăng mức hỗ trợ từ ngân sách TP cho người thuộc hộ nghèo, cận nghèo, người cao tuổi, người dân tộc thiểu số, người khuyết tật và các quy định liên quan.
Bảo hiểm Y tế hướng tới mục tiêu chăm sóc sức khỏe toàn dân BHXH & Đời sống

Bảo hiểm Y tế hướng tới mục tiêu chăm sóc sức khỏe toàn dân

TTTĐ - Để hiện thực hóa mục tiêu miễn viện phí ở mức cơ bản cho toàn dân vào năm 2030 theo tinh thần Nghị quyết số 72-NQ/TW của Bộ Chính trị về chăm sóc, bảo vệ và nâng cao sức khỏe Nhân dân trong tình hình mới, nhiệm vụ trọng tâm hiện nay là quản lý, sử dụng hiệu quả và bền vững Quỹ Bảo hiểm Y tế (BHYT). Đây là trụ cột tài chính quan trọng, bảo đảm cho việc vận hành chính sách chăm sóc sức khỏe toàn dân, tiến tới bao phủ y tế toàn diện, công bằng và bền vững.
Đảm bảo quyền lợi BHYT cho người hưởng trợ cấp hưu trí xã hội BHXH & Đời sống

Đảm bảo quyền lợi BHYT cho người hưởng trợ cấp hưu trí xã hội

TTTĐ - Thực hiện Công văn số 2036/BHXH-CSYT của Bảo hiểm xã hội Việt Nam về việc xác định quyền lợi hưởng chế độ bảo hiểm y tế (BHYT), BHXH thành phố Hà Nội đã phối hợp với Sở Y tế Hà Nội triển khai rà soát và thống nhất phương án thực hiện chính sách BHYT đối với nhóm đối tượng hưởng trợ cấp hưu trí xã hội theo quy định mới.
Phấn đấu tỷ lệ tham gia bảo hiểm y tế đạt 95,5% BHXH & Đời sống

Phấn đấu tỷ lệ tham gia bảo hiểm y tế đạt 95,5%

TTTĐ - Theo Nghị quyết về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2026 vừa được Quốc hội thông qua, tỷ lệ hộ nghèo năm 2026 (theo chuẩn nghèo đa chiều) giảm 1 - 1,5 điểm %; số bác sĩ trên 1 vạn dân đạt khoảng 15,3 bác sĩ; số giường bệnh trên 1 vạn dân đạt 34,7 giường bệnh; tỷ lệ tham gia bảo hiểm y tế đạt 95,5%.
Phát huy hiệu quả và tiện ích chuyển đổi số BHXH & Đời sống

Phát huy hiệu quả và tiện ích chuyển đổi số

TTTĐ - Tại Thủ đô Hà Nội - nơi có số lượng người tham gia bảo hiểm lớn nhất cả nước, công tác chuyển đổi số được BHXH thành phố xác định là động lực then chốt giúp nâng cao hiệu quả quản lý, phục vụ tốt hơn người dân và doanh nghiệp.
BHXH thành phố Hà Nội hưởng ứng Ngày Pháp luật Việt Nam năm 2025 BHXH & Đời sống

BHXH thành phố Hà Nội hưởng ứng Ngày Pháp luật Việt Nam năm 2025

TTTĐ - Thực hiện chỉ đạo của UBND thành phố Hà Nội về việc tổ chức hưởng ứng Ngày Pháp luật Việt Nam năm 2025, BHXH thành phố Hà Nội đã ban hành văn bản số 1918/BHXH-VP chỉ đạo Văn phòng, các phòng nghiệp vụ và BHXH các xã, phường triển khai nhiều hoạt động thiết thực nhằm hưởng ứng sự kiện ý nghĩa này.
Xem thêm