Dấu ấn nghiên cứu của 10 tài năng khoa học công nghệ Việt Nam
Khánh thành "địa chỉ đỏ" tìm hiểu, nghiên cứu về Quốc hội Việt Nam |
Hóa học thân thiện với môi trường
Tiến sĩ Lê Duy Dũng, Giám đốc chương trình Cử nhân Khoa học Dữ liệu, Trường Đại học VinUni, gây chú ý với công trình “Tìm kiếm quy trình tổng hợp hóa học thân thiện với môi trường bằng Trí tuệ nhân tạo và hệ thống robot tự động hiệu năng cao”.
![]() |
Tiến sĩ Lê Duy Dũng (ở giữa) trao đổi cùng đồng nghiệp |
Thay vì sử dụng muối nitrate gây phát thải độc hại, anh đã tìm ra cách thay thế bằng muối chloride (ZnCl₂) an toàn và phổ biến hơn. Điều đặc biệt là trí tuệ nhân tạo không chỉ “phụ trợ” mà tham gia vào ba giai đoạn chính của quá trình phát hiện vật liệu mới, giúp rút ngắn thời gian nghiên cứu, giảm phát thải và mở ra khả năng ứng dụng tại các phòng thí nghiệm Việt Nam.
Giá trị thực tiễn công trình mang đến gồm: Giảm thiểu phát thải và ô nhiễm; tăng tốc quá trình khám phá vật liệu mới; phù hợp với điều kiện hạn chế về thiết bị và dữ liệu của các phòng thí nghiệm Việt Nam. Công trình đã được công bố trên tạp chí Journal of Science: Advanced Materials and Devices (Q1; IF: 6.8, H-index: 60, đồng tác giả chính).
Mở rộng không gian kết nối với 5G thông minh
Tiến sĩ Vũ Thái Học, giảng viên Trường Đại học Thủ Dầu Một, lại mang đến đột phá trong lĩnh vực truyền thông không dây với hệ thống đa truy cập không trực giao gói tin ngắn kết hợp bề mặt phản xạ thông minh (IRS-NOMA).
![]() |
Với tên gọi “Hệ thống đa truy cập không trực giao gói tin ngắn dựa trên bề mặt phản xạ thông minh”, công trình không chỉ giúp giảm độ trễ và tăng độ ổn định truyền sóng, mà còn tiết kiệm chi phí triển khai mạng 5G và Internet vạn vật. Đây là hướng nghiên cứu có tính ứng dụng cao trong xây dựng thành phố thông minh và hệ thống viễn thông tương lai.
Công trình khẳng định tiềm năng của bề mặt phản xạ thông minh trong việc cải thiện chất lượng truyền dẫn vô tuyến trong các hệ thống internet vạn vật và các dịch vụ mạng 5G chất lượng cao. Công trình đã được công bố trên tạp chí IEEE Transactions on Vehicular Technology năm 2022 (Q1, H-index: 78, IF: 7.1, tác giả chính).
Robot “nhìn - cảm - hiểu” thế giới như con người
Từ Đại học Công nghệ Nanyang (Singapore), Tiến sĩ Nguyễn Phạm Nhất Thiên Minh đưa công nghệ robot lên tầm cao mới với nghiên cứu dung hợp cảm biến đa mô hình.
![]() |
Bằng phương pháp VIRAL Fusion và hệ thống thời gian liên tục SLICT tiên tiến, robot có thể định vị và nhận thức không gian ổn định hơn, đặc biệt trong môi trường đô thị phức tạp. Công trình mở đường cho sự phát triển của robot tự hành và phương tiện thông minh “made by Vietnamese” trong tương lai.
Giá trị thực tiễn công trình mang lại: Áp dụng cho các hệ thống robot và hệ thống tự hành, góp phần xây dựng nền tảng định vị và nhận thức vững chắc cho các phương tiện tự hành trong môi trường đô thị đông đúc và phức tạp như ở Việt Nam. Công trình đã được công bố trên tạp chí IEEE Transactions on Robotics (Q1, H-index: 201, IF: 10.2, tác giả chính ) và IEEE Robotics and Automation Letters (Q1, H-index: 129, IF: 5.3, tác giả chính ).
Nano y sinh – chìa khóa mới của y học chính xác
Tiến sĩ Mai Ngọc Xuân Đạt, Viện Công nghệ Vật liệu Tiên tiến, Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh, đã “làm mềm” thế giới vật liệu bằng công trình thiết kế hạt nano silica hữu cơ phân hủy sinh học có khả năng giải phóng thuốc chậm và trúng đích.
![]() |
Vật liệu này không chỉ giúp tăng hiệu quả điều trị, giảm tác dụng phụ mà còn là nền tảng quan trọng cho các ứng dụng y học tái tạo và chẩn đoán sinh học – nơi công nghệ và sự sống hòa quyện.
Đề tài được ứng dụng làm cơ sở cho các công trình nghiên cứu vật liệu dẫn truyền thuốc, đặc biệt là vật liệu nano silica. Cơ sở để phát triển các vật liệu mở rộng trong các ứng dụng khác của công nghệ y dược như hình ảnh sinh học (bioimaging), chẩn đoán bệnh (diagnosis), trị liệu và y học tái tạo. Công trình được công bố trên tạp chí Biomaterials Advances năm 2021 (Q1, H-index: 199, IF = 6.0).
Liệu pháp quang nhiệt “vũ khí” mới trong điều trị ung thư
Ở lĩnh vực y sinh, Tiến sĩ Lê Quốc Việt, Phó Trưởng khoa Dược, Trường Đại học Tôn Đức Thắng, nổi bật với chuỗi nghiên cứu về hệ phân phối thuốc thế hệ mới ứng dụng liệu pháp quang nhiệt và miễn dịch.
![]() |
Công trình khoa học tiêu biểu: “Nghiên cứu phát triển hệ phân phối thuốc từ vật liệu sinh học ứng dụng liệu pháp quang nhiệt và liệu pháp miễn dịch trong điều trị ung thư và bệnh tự miễn” được thực hiện với mục tiêu phát triển các hệ phân phối thuốc thế hệ mới từ vật liệu sinh học nhằm tăng hiệu quả điều trị ung thư và bệnh tự miễn.
Nghiên cứu tập trung vào các kỹ thuật biến đổi các vật liệu tương thích sinh học như polydopamine, peptide, nucleic acid, polysaccharide,... tạo thành hệ giá mang vận chuyển đa chức năng, có khả năng tải thuốc, chất bổ trợ vắc-xin, có khả năng hướng đích khối u, có đặc tính chuyển đổi quang nhiệt và điều hòa miễn dịch.
Giá trị thực tiễn: Ứng dụng trong phát triển các thuốc thế hệ mới, tăng hiệu quả điều trị, giảm tác dụng phụ toàn thân, giảm độc tính của thuốc, giúp tăng tính an toàn. Là tiền đề phát triển các vắc-xin thế hệ mới ứng dụng trong điều trị ung thư và các bệnh tự miễn. Công trình đã được công bố trên 31 bài báo quốc tế thuộc danh mục ISI (26 bài Q1, 5 bài Q2) (ACS nano [IF: 16] , Advanced Materials [IF:26.8], Advanced Functional Materials (IF: 19).
Polymer tự nhiên “hóa thân” thành vật liệu y sinh thông minh
Tiến sĩ Đặng Thị Lệ Hằng, Viện Công nghệ tiên tiến – Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam, mang đến một hướng đi nhân văn: phát triển vật liệu y sinh tái tạo mô và điều trị bệnh mạn tính.
![]() |
Công trình “Phát triển vật liệu y sinh định hướng chức năng từ polymer tự nhiên biến tính tích hợp hoạt chất sinh học cho ứng dụng trong tái tạo mô chuyên biệt và điều trị bệnh lý mạn tính” góp phần tạo nền tảng vật liệu sinh học thông minh, có khả năng tương tác và phản hồi với vi môi trường bệnh lý, nhằm tái tạo mô chuyên biệt và hỗ trợ điều trị bệnh mạn tính qua cơ chế điều biến sinh học nội sinh.
Cách tiếp cận dựa trên polymer sinh học tự nhiên (alginate, chitosan), được biến tính bằng nhóm chức sinh học để tăng khả năng giao tiếp tế bào, đồng thời mang tải và giải phóng hoạt chất/chiết xuất dược liệu theo đặc thù sinh lý của từng loại mô bệnh.
Từ kết quả nghiên cứu có thể ứng dụng thực tiễn trong y học tái tạo và điều trị bệnh lý mạn tính, góp phần cụ thể vào sự phát triển của lĩnh vực Công nghệ sinh học y sinh tại Việt Nam. Ngoài giá trị điều trị, công trình còn có giá trị trong công tác đào tạo, giảng dạy. Công trình đã được công bố trên 5 tạp chí quốc tế uy tín, 2 bằng độc quyền sáng chế đã được cấp, 2 đơn sáng chế đang xét duyệt.
Năng lượng tái tạo từ lòng đất
Với khát vọng hướng tới hạ tầng xanh, Tiến sĩ Phạm Anh Tuấn, Viện Công nghệ Hoàng gia KTH (Thụy Điển), nghiên cứu giải pháp nền móng năng lượng tích hợp (energy piles, energy walls).
![]() |
Qua công trình“Giải pháp nền móng năng lượng tích hợp: Hướng đi mới cho hạ tầng thích ứng biến đổi khí hậu tại các vùng chịu tác động thời tiết cực đoan” anh đã tập trung phát triển giải pháp công nghệ mang tính kép: vừa nâng cao độ ổn định và khả năng chịu lực của nền móng trong điều kiện bất lợi, vừa khai thác hiệu quả năng lượng tái tạo tại chỗ thông qua các hệ thống nền móng năng lượng (energy piles) và tường năng lượng (energy walls).
Ứng dụng này đặc biệt phù hợp với vùng ven biển, miền núi, đồng bằng ngập nước của Việt Nam, giúp giảm chi phí và tăng tính bền vững trong xây dựng.
Công trình đã được công bố trên 12 tạp chí quốc tế (tiêu biểu như: tạp chỉ Canadian Geotechnical Journal năm 2025 (Q1, H-index: 158, tác giả chính) và tạp chí Journal of Geotechnical and Geoenvironmental Engineering–ASCE năm 2023 (Q1, H-index: 204, tác giả chính).
AI dự báo lũ lụt – công nghệ vì con người
Tại Đại học Michigan (Hoa Kỳ) Tiến sĩ Trần Ngọc Vĩnh phát triển mô hình AI dự báo lũ ở quy mô lục địa với độ chính xác cao.
![]() |
Chỉ trong vài phút, mô hình có thể cung cấp dự báo cho 5.500 vị trí, hỗ trợ các cơ quan phòng chống thiên tai lập kế hoạch ứng phó hiệu quả hơn. Công trình này chứng minh rằng AI không chỉ dành cho công nghiệp hay tài chính, mà còn có thể cứu mạng con người.
Mục tiêu công trình hướng đến là cung cấp dự báo và cảnh báo lũ với độ chính xác cao trong trung hạn (10 ngày), đồng thời bổ sung thông tin về khoảng không chắc chắn trong dự báo. Mô hình đã được kiểm chứng trên phạm vi toàn nước Mỹ, thể hiện khả năng mở rộng và áp dụng một cách linh hoạt cho nhiều khu vực khác nhau.
Vật liệu “siêu nhỏ” bảo vệ môi trường và quốc phòng
Thạc sĩ Nguyễn Bá Mạnh, Viện Hóa học, Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam, phát triển vật liệu khung cơ kim (MOFs) ứng dụng trong xử lý chất độc quân sự, khí thải và ô nhiễm môi trường.
![]() |
Điểm độc đáo là công nghệ vi sóng giúp rút ngắn thời gian phản ứng xuống chỉ vài phút, tiết kiệm năng lượng, giảm chi phí và an toàn hơn.
Một trong những sản phẩm MOFs của anh đã được triển khai thực tế tại Lữ đoàn 86, Binh chủng Hóa học, khẳng định giá trị ứng dụng của nghiên cứu Việt Nam.
Công trình đã được công bố trên 16 bài báo Q1, IF trung bình = 6.53 (Chemical Engineering Journal, Q1, IF: 13.2; Journal of Hazardous Materials, Q1, IF: 11.3) và có hơn 400 trích dẫn trong 5 năm qua.
Cảm biến hồng ngoại tương lai
Tiến sĩ Nguyễn Văn Tuấn, Học viện Kỹ thuật Quân sự, với cụm công trình về màng vật liệu InSb.
Bằng việc điều khiển chính xác cấu trúc tinh thể và đặc tính quang học, anh mở ra khả năng chế tạo cảm biến hồng ngoại linh hoạt, vừa phục vụ dân dụng, vừa có tiềm năng lưỡng dụng trong quốc phòng.
![]() |
Công trình không chỉ giúp giảm chi phí chế tạo mà còn đặt nền móng cho thế hệ cảm biến Việt Nam “tự chủ công nghệ”. Công trình đã được công bố trên tạp chí Applied Surface Science năm 2023 (Q1, H-index: 249, IF: 6,9, tác giả chính). 3 công trình còn lại được đăng ở các tạp chí và hội nghị uy tín trong nước năm 2022-2023 (tác giả chính).
Mười gương mặt, mười hướng nghiên cứu nhưng đều chung một điểm, khát vọng đưa khoa học Việt Nam vươn tầm thế giới.
Họ không chỉ làm chủ công nghệ mà còn đang dùng tri thức để giải quyết các vấn đề cấp thiết của thời đại: môi trường, y học, năng lượng, và biến đổi khí hậu.
Giải thưởng Khoa học công nghệ Quả cầu vàng 2025 vì thế không chỉ là sự ghi nhận thành tích khoa học, mà còn là lời khẳng định, thế hệ trẻ Việt Nam hoàn toàn có thể chinh phục những đỉnh cao công nghệ của nhân loại.
Tin liên quan
Cùng chuyên mục
Đọc thêm

Khí phách ngàn năm – Sức trẻ Thủ đô tỏa sáng

Đêm nghệ thuật mừng thành công Đại hội Đảng bộ Thành phố Hà Nội

Hành trình sẻ chia của những trái tim nhân ái

Quảng Oai: Dấu ấn sức trẻ ở vùng đất khó

Thanh niên và sứ mệnh hiện thực hóa Nghị quyết 57

Viết tiếp truyền thống hiếu học bằng công trình, phần việc thanh niên

Khánh Vy, Hòa Minzy, Quốc Thiên đồng hành cùng “Thành phố nở hoa”

Chiến binh “đường đua xanh” vượt lên số phận

Đảng viên trẻ gửi trọn niềm tin vào Đại hội Đảng bộ Hà Nội
