Tag

Đầu tư xây dựng dự án dầu khí: Nhiều bất cập trong văn bản pháp luật

Doanh nghiệp 03/10/2021 12:01
aa
TTTĐ - Với đặc thù có vốn đầu tư lớn, rủi ro lại cao cũng như không chỉ chịu sự chi phối của luật pháp Việt Nam mà còn phải tuân theo các thông lệ quốc tế, việc triển khai đầu tư các dự án dầu khí, trong đó có các dự án ở lĩnh vực thượng nguồn như thăm dò khai thác dầu khí đang gặp rất nhiều khó khăn.
PVFCCo: Đồng tâm hiệp lực, sáng tạo để viết tiếp truyền thống tự hào Người lao động Dầu khí hưởng ứng “Toàn dân đoàn kết, ra sức phòng, chống dịch Covid-19” PV GAS đảm bảo cấp khí liên tục, hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu tài chính Kỷ niệm 31 năm Ngày thành lập PV GAS: Tự hào truyền thống - Khát vọng vươn cao “Đạm Phú Mỹ - Ngàn sẻ chia” - Hơn 3.000 tấn phân bón trị giá 30 tỷ đồng tặng bà con Petrovietnam - gần nửa thế kỷ đi từ “không đến có"
Giếng khoan Kèn Bầu 2X, Lô 114, bể Sông Hồng, thềm lục địa Việt Nam được giàn khoan SAGA thi công. Ảnh: Trương Hoài Nam
Giếng khoan Kèn Bầu 2X, Lô 114, bể Sông Hồng, thềm lục địa Việt Nam được giàn khoan SAGA thi công; Ảnh: Trương Hoài Nam

Khó khăn này lại càng lớn hơn khi bản thân các dự án dầu khí đang bị “trói buộc” bởi hệ thống văn bản pháp luật chồng chéo, không còn phù hợp trong môi trường đầu tư có nhiều thay đổi để ngành Dầu khí có thể đóng góp hiệu quả cho nền kinh tế.

Kỳ 1: Đặc thù của hoạt động đầu tư các dự án dầu khí

Với đặc điểm khác biệt so với các dự án đầu tư thông thường, các dự án dầu khí, thường có quy mô đầu tư lớn, được xếp vào nhóm các dự án quan trọng quốc gia, công nghệ cao và đi kèm với các rủi ro không hề nhỏ trong triển khai, đặc biệt là các rủi ro về địa chất đối với các dự án thăm dò khai thác dầu khí.

Trong khi đó, việc triển khai dự án dầu khí lại đang chịu sự chi phối lớn nhất của Luật Dầu khí - văn bản pháp luật đã không còn phù hợp trong bối cảnh có nhiều thay đổi. Hơn thế nữa, việc triển khai này càng gặp khó khăn lớn hơn khi chịu thêm sự chi phối chồng chéo của nhiều luật khác như Luật Đầu tư, Luật Đầu tư công, Luật Xây dựng, Luật Đấu thầu, Luật Quản lý sử dụng vốn Nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp và các văn bản dưới luật khác…

Theo ông Nguyễn Văn Phúc - Nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Quốc hội, trong bối cảnh có nhiều thay đổi, hành lang pháp lý cho hoạt động của ngành Dầu khí, đặc biệt là Luật Dầu khí đã không còn phù hợp để ngành Dầu khí phát triển mạnh mẽ và đóng góp hiệu quả cho nền kinh tế.

Làm rõ hơn về bất cập này, Tổng giám đốc Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) Lê Mạnh Hùng cho biết, hoạt động thăm dò khai thác dầu khí đang phải đối mặt với khó khăn về điều kiện kỹ thuật, địa chất, tình hình triển khai thực địa. Đặc biệt, cơ chế chính sách pháp luật về dầu khí không còn phù hợp với tình hình mới, ảnh hưởng không nhỏ tới lĩnh vực cốt lõi này.

Cụ thể, Luật Dầu khí và các điều khoản Hợp đồng dầu khí hiện hành còn tồn tại bất cập và kém hấp dẫn so với các nước trong khu vực, không phù hợp tiềm năng trữ lượng dầu khí hiện nay nên không thu hút được nhà đầu tư nước ngoài.

Trên thực tế, Luật Dầu khí được ban hành năm 1993, sau đó được sửa đổi, bổ sung một số điều vào các năm 2000 và 2008. Trong bối cảnh giá dầu thô thế giới biến động, xu hướng chuyển dịch năng lượng (từ năng lượng truyền thống sang các dạng năng lượng mới) và điều kiện thăm dò khai thác dầu khí của Việt Nam, các cơ chế trong Luật Dầu khí không đủ khuyến khích các nhà đầu tư phát triển các mỏ nhỏ/mỏ cận biên, hay áp dụng các giải pháp để tận thăm dò, nâng cao hệ số thu hồi dầu (EOR).

Minh chứng rõ nét nhất là Luật Dầu khí dù đã thể hiện khá đầy đủ các giai đoạn, bước thực hiện đối với dự án thăm dò khai thác dầu khí/Hợp đồng dầu khí nhưng lại chưa chỉ rõ các thủ tục đầu tư đầy đủ khi một doanh nghiệp nhà nước (PVN/đơn vị thuộc PVN) có tham gia đầu tư vào dự án dầu khí (trong khi Luật Đầu tư cũng không quy định).

Chính sự chồng chéo, thiếu quy định này đã khiến cho việc triển khai các dự án thăm dò khai thác dầu khí đang gặp nhiều khó khăn và khiến nhiều doanh nghiệp nước ngoài “nản chí” khi có ý định đầu tư vào các dự án loại này, nhất là khi điều kiện khai thác hiện nay chủ yếu là mỏ nhỏ, ở vùng nước sâu, xa bờ đòi hỏi chi phí lớn.

Trên thực tế, việc thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam trong lĩnh vực thăm dò khai thác những năm gần đây gần như “giẫm chân tại chỗ”. Trong giai đoạn 2016 - 2020, PVN chỉ ký được 8 hợp đồng dầu khí mới, chưa bằng 1/3 so với giai đoạn 2010 - 2015 (27 hợp đồng dầu khí mới).

Bên cạnh đó, các văn bản pháp luật này chỉ điều chỉnh hoạt động đầu tư của các bên với vai trò là các nhà thầu dầu khí nói chung (quan hệ giữa nhà đầu tư với nước chủ nhà/Chính phủ Việt Nam), còn với vai trò là nhà đầu tư vào thăm dò khai thác dầu khí có sử dụng vốn Nhà nước tại doanh nghiệp thì vẫn phải tuân thủ các luật chung liên quan đến quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư.

Thực tế là các dự án thăm dò khai thác dầu khí trong nước được thực hiện bởi tổ hợp các nhà thầu dầu khí quốc tế và/hoặc nhà đầu tư trong nước cùng góp vốn đầu tư để triển khai công tác thăm dò khai thác dầu khí tại 1 khu vực/lô/cụm lô nào đó tại thềm lục địa Việt Nam với điều kiện phải tuân thủ các cam kết về quyền và nghĩa vụ trong Hợp đồng dầu khí (thường là Hợp đồng chia sản phẩm - PSC) được ký kết giữa Chính phủ Việt Nam (đại diện là PVN) và tổ hợp các nhà thầu, đồng thời tuân thủ các quy định liên quan trong Luật Dầu khí cũng như văn bản dưới Luật Dầu khí.

Số lượng hợp đồng dầu khí ký mới trong giai đoạn 2010 - 2020
Số lượng hợp đồng dầu khí ký mới trong giai đoạn 2010 - 2020

Theo đó, nếu kết quả thăm dò - thẩm lượng xác định được mỏ dầu khí thương mại, các nhà thầu sẽ tiến hành hoạt động khai thác và bán dầu thô hoặc khí ngay tại miệng giếng, theo đó các hoạt động này chỉ tuân thủ quy định trong PSC và Luật Dầu khí.

Tuy nhiên, trong trường hợp các lô/khu vực hợp đồng có khai thác khí và các nhà thầu thực hiện bán khí đến tận hộ tiêu thụ trên bờ (trường hợp này được xem là PSC mở rộng), các nhà thầu sẽ cần đầu tư bổ sung các công trình đường ống để dẫn khí về bờ và các trạm xử lý, tiếp nhận, vận chuyển khí đến các hộ tiêu thụ. Trong khi đó, hoạt động xây dựng các công trình trên bờ hiện nay đang điều chỉnh bởi Luật Xây dựng và các văn bản dưới Luật Xây dựng.

Cùng với đó, Luật Quản lý sử dụng vốn Nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp (Luật 69/2014/QH13 ngày 26/11/2014) quy định đối với các dự án nhóm A cần phải có chấp thuận của đại diện chủ sở hữu trước khi chủ đầu tư quyết định đầu tư.

Với đặc thù của ngành dầu khí (Nhà nước vừa quản lý đầu tư, vừa quản lý tài nguyên), Luật Dầu khí quy định rất chặt chẽ các bước thực hiện dự án thăm dò khai thác dầu khí, toàn bộ các thay đổi của Hợp đồng dầu khí cần được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, các bước đầu tư dự án thăm dò khai thác dầu khí (ODP, EDP, FDP) khi thẩm định đều có sự tham gia của đại diện các Bộ ngành và Ủy ban Quản lý vốn Nhà nước tại doanh nghiệp (đại diện chủ sở hữu của PVN).

Vì vậy, việc yêu cầu phải trình và đạt được chấp thuận của đại diện chủ sở hữu trước khi quyết định đầu tư theo Luật 69/2014/QH13 sẽ dẫn đến doanh nghiệp sử dụng vốn có nguồn gốc vốn Nhà nước (như PVEP) phải trình phê duyệt dự án theo 2 quy trình thủ tục khác nhau làm kéo dài thời gian phê duyệt và nhiều khi không khả thi vì tiến độ và nội dung phê duyệt theo 2 quy trình không giống nhau. Đây chính là khó khăn khiến việc triển khai đầu tư các dự án thăm dò khai thác đang bị chậm chễ.

Theo kết quả nghiên cứu của Viện Dầu khí Việt Nam (VPI), không chỉ có các dự án thượng nguồn gặp khó khăn, việc triển khai các dự án dầu khí ở lĩnh vực trung nguồn và hạ nguồn như chế biến khí, điện khí cũng gặp “trắc trở” bởi sự chồng chéo về văn bản quy phạm pháp luật và một loạt thông tư hướng dẫn của các bộ, liên bộ, ngành liên quan cũng như các tiêu chuẩn, quy chuẩn, định mức kinh tế kỹ thuật từ khâu phê duyệt chủ trương đầu tư, lập và thẩm định dự án đầu tư, cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư cho đến quản lý quá trình triển khai xây dựng và kết thúc đưa dự án vào vận hành khai thác.

Ví dụ rất rõ có thể thấy là trong việc triển khai các dự án đường ống dẫn khí từ mỏ/miệng giếng khai thác ngoài khơi về bờ và đến các hộ tiêu thụ (nhà máy điện, nhà máy đạm...).

Thực tế là việc triển khai các dự án này đòi hỏi tính đồng bộ trong công tác đầu tư giữa hoạt động khai thác, vận chuyển và sử dụng khí (hay nói cách khác tiến độ đầu tư, vận hành dự án đường ống dẫn khí cần đảm bảo đồng bộ với tiến độ khai thác khí tại mỏ và tiến độ đầu tư, vận hành các nhà máy nhiệt điện khí, nhà máy đạm sử dụng khí làm nguyên liệu đầu vào).

Với các dự án này, có nhiều chủ thể cùng liên quan trong chuỗi hoạt động khí, bao gồm: chủ mỏ (đơn vị/nhà thầu khai thác khí); đơn vị kinh doanh khí (mua khí từ chủ mỏ và bán cho các hộ tiêu thụ); đơn vị vận chuyển và xử lý khí (thực hiện dịch vụ vận chuyển, xử lý khí từ mỏ đến các hộ tiêu thụ) và các hộ tiêu thụ khí (các nhà máy nhiệt điện khí là hộ tiêu thụ chính). Trong đó, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) có nhiều vai trò khác nhau: Mua khí từ mỏ, tham gia đầu tư đường ống, bán khí cho các hộ tiêu thụ khí. Ngoài ra, giá khí mua của chủ mỏ tại điểm giao nhận từ mỏ (giá khí miệng giếng), giá khí bán cho các hộ tiêu thụ điện/đạm và giá điện bán cho Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) đều do Chính phủ quyết định.

Bên cạnh đó, có một số nguồn khí do điều kiện khai thác/sử dụng đặc thù nên được áp dụng cơ chế chuyển ngang (pass through) giá mua khí sang giá điện (ví dụ như khí khu vực PM3-CAA; Cụm mỏ Lô B, 48/95, 52/97). Điều này cho thấy, quan hệ lợi ích hài hòa giữa các bên liên quan trong chuỗi hoạt động khí mới có thể đảm bảo được sự đồng bộ trong chuỗi dự án, điều này luôn là thách thức trong thực tiễn triển khai.

Đáng chú ý, các dự án chế biến dầu khí, các dự án nhà máy nhiệt điện (khí, than) thường có quy mô đầu tư rất lớn (đến 2 tỷ USD tương đương hơn 40.000 tỷ đồng trở lên) và thời gian xây dựng dài, dẫn đến việc huy động vốn rất phức tạp, phải huy động vốn từ các nguồn tài chính nước ngoài và cần có bảo lãnh/hỗ trợ của Chính phủ/Bộ Tài chính. Ngoài ra còn chịu nhiều tác động từ các quy định về an toàn, môi trường, chất lượng sản phẩm buộc chủ đầu tư phải đầu tư nâng cấp làm ảnh đáng kể đến hiệu quả của nhà máy.

Ngoài ra, có dự án bắt buộc phải sử dụng công nghệ bản quyền, nghĩa là mua/thuê bản quyền công nghệ (bao gồm thiết kế công nghệ, sở hữu trí tuệ, hỗ trợ kỹ thuật, thiết bị độc quyền, hóa chất xúc tác...) từ các tổ chức nước ngoài để phù hợp với yêu cầu chế biến của từng nhà máy/dự án, đảm bảo tương thích với nguồn nguyên liệu dầu thô đầu vào và cơ cấu sản phẩm đầu ra. Do đó, khi triển khai đầu tư (như khâu thiết kế, lựa chọn nhà thầu EPC) thường phải tuân thủ theo thông lệ quốc tế.

Với các bất cập này, nhiều chuyên gia cho rằng việc sớm rà soát, sửa đổi các văn bản pháp lý không còn phù hợp và chồng chéo trong bối cảnh mới sẽ là “liều thuốc” quan trọng để các dự án dầu khí có thể triển khai thuận lợi, đồng thời tạo sự yên tâm tin tưởng cho các nhà đầu tư nước ngoài “rót vốn” vào lĩnh vực thăm dò và khai thác dầu khí.

(Còn nữa)

Hải Vân

Đọc thêm

Công đoàn Petrovietnam: 34 năm giữ lửa truyền thống, điểm tựa của người lao động Doanh nghiệp

Công đoàn Petrovietnam: 34 năm giữ lửa truyền thống, điểm tựa của người lao động

TTTĐ - Trong suốt hơn 3 thập kỷ xây dựng và phát triển, Công đoàn Tập đoàn Công nghiệp - Năng lượng Quốc gia Việt Nam (Petrovietnam) đã không ngừng lớn mạnh, đổi mới hoạt động, trở thành chỗ dựa vững chắc cho người lao động và là một nguồn lực quan trọng góp phần hoàn thành nhiệm vụ của Tập đoàn trong từng giai đoạn phát triển, trở thành một trong những tổ chức công đoàn tiêu biểu trong hệ thống các công đoàn ngành Trung ương.
Petrovietnam - điểm tựa vĩ mô, động lực tăng trưởng mới của Việt Nam Doanh nghiệp

Petrovietnam - điểm tựa vĩ mô, động lực tăng trưởng mới của Việt Nam

TTTĐ - Từ vai trò “bộ đệm chống sốc” cho kinh tế vĩ mô đến nền tảng tài chính bền vững và khả năng dẫn dắt các chuỗi giá trị năng lượng mới, Tập đoàn Công nghiệp - Năng lượng Quốc gia Việt Nam (Petrovietnam) đang giữ vị trí đặc biệt trong ổn định kinh tế quốc gia. TS Châu Đình Linh (Đại học Ngân hàng TP HCM) nhấn mạnh yêu cầu cải cách quản trị mạnh mẽ và trao quyền thực chất để Petrovietnam có thể trở thành động lực tăng trưởng cho Việt Nam giai đoạn 2026-2030.
“Phân Bón Cà Mau – Cùng nhau san sẻ” cùng bà con Khánh Hoà Doanh nghiệp

“Phân Bón Cà Mau – Cùng nhau san sẻ” cùng bà con Khánh Hoà

TTTĐ - Chương trình “Phân Bón Cà Mau – Cùng nhau san sẻ” của Công ty Cổ phần Tổng Công ty Phân bón Dầu khí Cà Mau (PVCFC - Phân Bón Cà Mau) hướng tới bà con sau những đợt mưa bão kéo dài, nhiều khu vực tại Khánh Hòa vẫn đang gồng mình khắc phục hậu quả. Không chỉ nhà cửa hư hỏng, sinh hoạt bị đảo lộn, mà đất đai – kế sinh nhai chính của người dân – cũng chịu tổn thương nặng nề do ngập úng kéo dài, rửa trôi, tiềm ẩn nhiều rủi ro cho các mùa vụ tiếp theo.
Khẳng định vị thế tiên phong trong ngành Dược Việt Nam Doanh nghiệp

Khẳng định vị thế tiên phong trong ngành Dược Việt Nam

TTTĐ - Nhìn lại chặng đường đã qua, năm 2025 có thể xem là một trong những năm đáng nhớ nhất của Công ty Cổ phần Dược phẩm Hà Tây (Dược Hà Tây) với nhiều thành tựu nổi bật. Đặc biệt, việc đón nhận Huân chương Lao động hạng Ba đã trở thành niềm tự hào to lớn của toàn thể công ty.
Công đoàn Petrovietnam kiến tạo động lực mới cho kỷ nguyên chuyển đổi Doanh nghiệp

Công đoàn Petrovietnam kiến tạo động lực mới cho kỷ nguyên chuyển đổi

TTTĐ - Bước vào nhiệm kỳ mới trong bối cảnh Tập đoàn Công nghiệp - Năng lượng Quốc gia Việt Nam (Petrovietnam) chuyển dịch năng lượng và hội nhập sâu rộng, Công đoàn Petrovietnam xác định tinh thần chủ động, đổi mới. Với vai trò điểm tựa của người lao động (NLĐ), Công đoàn tiếp tục kiến tạo môi trường làm việc văn minh, sáng tạo và đồng hành cùng NLĐ xây dựng Petrovietnam phát triển bền vững.
BSR chủ động vượt “bão” năm 2026 Doanh nghiệp

BSR chủ động vượt “bão” năm 2026

TTTĐ - Mặc dù vượt “bão” thành công để về đích sớm năm 2025 với nhiều thành tích đáng kể nhưng theo dự báo sẽ lại có những “cơn bão” lớn hơn đang chờ Công ty Cổ phần Lọc Hóa dầu Bình Sơn (BSR) ở phía trước, đòi hỏi doanh nghiệp phải chủ động có các giải pháp trọng tâm để vượt qua và hoàn thành nhiệm vụ của năm bản lề 2026.
Nhiệt điện Vĩnh Tân 4 kiên định mục tiêu phát triển bền vững Doanh nghiệp

Nhiệt điện Vĩnh Tân 4 kiên định mục tiêu phát triển bền vững

TTTĐ - Năm 2025, Nhà máy Nhiệt điện Vĩnh Tân 4 tiếp tục vận hành an toàn, ổn định, bảo đảm nhiệm vụ cung ứng điện, đồng thời kiên trì triển khai các giải pháp bảo vệ môi trường, tăng cường đối thoại, minh bạch thông tin, qua đó củng cố niềm tin và sự đồng thuận của cộng đồng địa phương, hướng tới phát triển bền vững lâu dài.
Petrovietnam tăng cường hợp tác công nghệ với Qualcomm và VNPT trong lĩnh vực năng lượng Doanh nghiệp

Petrovietnam tăng cường hợp tác công nghệ với Qualcomm và VNPT trong lĩnh vực năng lượng

TTTĐ - Ngày 15/12, tại Hà Nội, Tập đoàn Công nghiệp - Năng lượng Quốc gia Việt Nam (Petrovietnam) đã có buổi làm việc với Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam (VNPT) và Qualcomm - tập đoàn công nghệ hàng đầu của Mỹ, nhằm trao đổi hợp tác công nghệ số trong lĩnh vực năng lượng, đặc biệt là các giải pháp về trí tuệ nhân tạo (AI), Internet vạn vật (IoT) và hạ tầng số phục vụ quá trình chuyển đổi số của Tập đoàn.
PVcomBank hợp tác Trường Kinh tế - Đại học Bách khoa Hà Nội, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao Doanh nghiệp

PVcomBank hợp tác Trường Kinh tế - Đại học Bách khoa Hà Nội, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao

TTTĐ - Ngân hàng TMCP Đại Chúng Việt Nam (PVcomBank) và Trường Kinh tế - Đại học Bách khoa Hà Nội (SEM-HUST) vừa ký kết thỏa thuận hợp tác, đánh dấu bước phát triển mới trong mối quan hệ giữa ngân hàng và cơ sở đào tạo, hướng tới nâng cao chất lượng giáo dục và phát triển nguồn nhân lực trẻ đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế hiện đại.
CEO Sao Thái Dương Nguyễn Thị Hương Liên được vinh danh tại Techfest 2025 Kinh tế

CEO Sao Thái Dương Nguyễn Thị Hương Liên được vinh danh tại Techfest 2025

TTTĐ - Trong khuôn khổ Techfest 2025 - sự kiện quốc gia về khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, bà Nguyễn Thị Hương Liên, CEO Công ty Cổ phần Sao Thái Dương, đã được trao Giải thưởng Doanh nhân Khoa học & Công nghệ tiêu biểu, ghi nhận hành trình bền bỉ đưa khoa học - công nghệ trở thành nền tảng phát triển doanh nghiệp và tạo dựng giá trị bền vững cho cộng đồng.
Xem thêm