Nguy cơ cao khi mang thai bị đái tháo đường
Qua khai thác bệnh sử thấy bệnh nhân có 2 lần mang thai đều phải điều trị đái tháo đường thai kỳ. Ngoài ra, bệnh nhân có 2 lần thai lưu ở tuần thai thứ 7-8. Đến lần mang thai thứ 5, khi biết mang thai bệnh nhân đã không khám và đánh giá yếu tố nguy cơ đái tháo đường thai kỳ.
Theo lời kể của bệnh nhân, bệnh nhân chỉ tự điều chỉnh chế độ ăn uống khi mang thai. Đến tuần thai thứ 28, khi bác sĩ sản khoa thấy tình trạng thai to (1,5kg), bệnh nhân mới được hướng dẫn đi làm nghiệm pháp tăng đường máu.
Bác sĩ khám cho thai phụ mắc đái tháo đường (Ảnh: BVCC) |
Kết quả, đường máu lúc đói là 10,3 mmol/l, sau 1h uống đường là 18,4 mmol/l, sau 2h uống đường là 18,92 mmol/l; bệnh nhân có ceton niệu, có tình trạng thừa cân rõ ràng.
Bác sĩ Bệnh viện Nội tiết Trung ương kết luận bệnh nhân mắc đái tháo đường mang thai - tức là trước khi mang thai bệnh nhân đã mắc đái tháo đường mà không biết và không điều trị.
Theo các bác sĩ, những yếu tố nguy cơ của đái tháo đường thai kỳ trên bệnh nhân này rất nhiều gồm: Mang thai khi tuổi đã cao (40 tuổi); thừa cân trước khi mang thai; tiền sử 2 lần mang thai mắc đái tháo đường thai kỳ; tiền sử sảy thai; có người thân là bố mắc đái tháo đường.
Tuy nhiên, bệnh nhân không đi khám định kỳ để phát hiện bệnh, và khi mang thai cũng không xét nghiệm chẩn đoán đái tháo đường thai kỳ.
Bác sĩ khuyến cáo, đối với sản phụ đái tháo đường thai kỳ, biến chứng của đái tháo đường thai kỳ có thể gây tăng huyết áp và tiền sản giật. Đây là hai biến chứng nghiêm trọng đe dọa tính mạng của mẹ và con, tăng nguy cơ sinh non, sảy thai tự nhiên, nhiễm khuẩn đường tiết niệu, mắc bệnh đái tháo đường tuýp 2 trong tương lai.
Đối với thai nhi, lượng đường trong máu cao hơn bình thường ở người mẹ là nguyên nhân khiến thai nhi phát triển quá nhanh, dẫn tới cân nặng lúc sinh to (thường là trên 4kg). Thai quá lớn sẽ dễ gặp phải chấn thương trong lúc sinh. Biến chứng này có thể dẫn đến liệt thần kinh cánh tay, gãy xương đòn, suy thai, ngạt.
Nguy cơ suy yếu thai cao gấp 4 lần, thai dễ mắc các dị tật bẩm sinh. Nguy cơ sinh non, trẻ gặp phải hội chứng suy hô hấp, thường phải chăm sóc đặc biệt sau sinh. Nguy cơ bệnh tật tiềm ẩn cho trẻ như rối loạn chuyển hóa như hạ glucose máu trẻ sơ sinh, hạ can-xi máu (do suy cận giáp trạng chức năng), tăng billirubin máu, chứng đa hồng cầu (do giảm oxy máu); nguy cơ bệnh tim mạch, béo phì, tăng huyết áp, rối loạn mỡ máu…
Do đó, bác sĩ khuyến cáo, phụ nữ có tiền sử đái tháo đường thai kỳ, ở những lần mang thai sau cần lưu ý: Xét nghiệm đường máu định kỳ 6 tháng/lần; khám và xét nghiệm đường màu trước khi mang thai; khi có thai cần đi xét nghiệm đường máu ngay để đánh giá nguy cơ; thực hiện chế độ ăn theo hướng dẫn của bác sĩ/chuyên gia dinh dưỡng.