Những câu chuyện rùng rợn về nhân quả, nghiệp báo - Kỳ 4: Hậu vận bi thương của gia đình 3 đời làm nghề đồ tể
![]() |
(TTTĐ) - Những sự việc rùng rợn, bi thương của cả gia đình 3 đời làm nghề đồ tể làng P.T đến nay vẫn còn lưu truyền, ám ảnh người dân làng. Vào những lúc trà dư tửu hậu, người ta vẫn kể về nó như một minh chứng sống động cho thuyết nhân quả mà người dân lành lẽ miền quê ấy đã tin tự bao đời.
>> Những câu chuyện rùng rợn về nhân quả, nghiệp báo:
Kỳ 1: Nỗi oan nghiệt của gia đình hành nghề sát sinh
Kỳ 2: Lối thoát mập mờ
Kỳ 3: Sự vi diệu của Phật pháp nhiệm màu
Chuyện chúng tôi sắp kể xảy ra cách đây đã ngót 10 năm. Tất cả những nhân vật chính trong câu chuyện này đều đã trở thành người thiên cổ. Nhưng những sự việc rùng rợn, bi thương của cả gia đình hành nghề đồ tể có truyền thống ba đời ấy vẫn còn lưu truyền, ám ảnh người dân làng P.T đến tận bây giờ. Và vào những lúc trà dư tửu hậu, người ta vẫn kể về nó như một minh chứng sống động cho thuyết nhân quả mà người dân lành lẽ miền quê ấy đã tin tự bao đời.
Kỹ năng giết mổ thượng thặng
Làng P.T có nhiều người hành nghề đồ tể. Nhưng nổi đình nổi đám nhất vẫn là gia đình anh Tr. có truyền thống 3 đời làm nghềsát sinh. Ông nội Tr. vốn là người chuyên giết mổ gia súc, chế biến thức ăn cho binh lính Pháp tại các doanh trại thời Pháp thuộc. Thừa hưởng tài hoa của ông nội, bố Tr. nấu nướng rất ngon.
Quán lòng lợn tiết canh của ông trên con đê đầu làng lúc nào khách cũng đông nườm nượp. Quán không chỉ thu hút đám thực khách trong làng mà dân mê nhậu khắp vùng cũng “phải lòng” mê mẩn. Vì lòng lợn của quán ông vừa tươi, vừa giòn, vừa ngon, vừa ngọt.
Lợn vừa mổ xong, cỗ lòng nào ngon nhất là ông giữ lại cho quán. Xơi miếng lòng thơm nức ngâm trong bát nước dùng nhúng mấy cọng hành bốc hơi nghi ngút, thực khách vừa nhai vừa xuýt xoa mà ban tặng những mỹ từ: “Thiên hạ đệ nhất lòng lợn”.
Có nhà thơ nổi tiếng ở Hà Nội, một lần ghé quán ăn, hùng hồn tuyên bố:“Tôi đã ăn lòng lợn khắp Bắc chí Nam nhưng chưa bao giờ, ở đâu, lại có lòng lợn ngon như ở đây. Phàm đã ăn lòng lợn ở đây thì không thể ăn ở đâu khác được nữa”. Từ bấy, cứ chủ nhật hàng tuần, ông thi sĩ sành ăn ấy lại phóng xe máy từ Hà Nội vào thưởng thức “Thiên hạ đệ nhấtlòng lợn”
![]() |
Quán lòng lợn tiết canh của bố Tr. được mọi người ban tặng cho mỹ từ “Thiên hạ đệ nhất lòng lợn” |
Nổi tiếng thế nhưng phải đến đời Tr., cơ nghiệp của gia đình ấy mới thực sự phất. 6 tuổi đầu, Tr. đã được bố tẩm bổ mỗi sáng một bát tiết tươi và quả mật lợn nóng hổi.
Khi con dao bầu sáng lóa vừa chọc vào yết hầu con lợn, máu xối ra như thác, bố Tr. vội hứng đầy bát con, ngửa cổ uống ực một hơi cạn. Bát thứ hai, ông dành cho Tr.
Quả mật vừa bứng khỏi bụng con lợn còn bốc hơi, ông ngửa cổ, phùng mang trợn mặt nuốt. Ông cười khà bảo: “Thiên hạ ngu lắm. Chỉ biết đến mật gấu, mật hùm, mật rắn mà không biết chi đến mật lợn.
Trong các bài thuốc cổ phương trị viêm xoang, viêm mũi, hiếm có loại mật nào sánh bằng mật lợn. Nó có vị đắng, mùi tanh, tính lạnh, có tác dụng giảm đau, tiêu sưng, sát khuẩn, thông đại tiện, kích thích tiêu hóa và bài tiết mật, chống viêm, kháng khuẩn, bổ tỳ vị rất tốt.
Theo Y học cổ truyền, tỳ vị thuộc hành “Thổ”, có chức năng hấp thu, vận chuyển chất dinh dưỡng để nuôi các bộ phận khác trong cơ thể. Tập trung “ôn bổ tỳ vị” chính là giúp giải quyết nguyên nhân sâu xa của mọi loại bệnh tật”.
Chính vì sùng bái công năng của mật lợn nên ngày nào, ông cũng ép thằng con giai mới 6 tuổi đầu nuốt một quả. Và lần nào, Tr. cũng khóc ngất vì nghẹn và đắng. Sau, dùng riết thành quen. Tr. nghiện nuốt mật lớn sống từ lúc nào không hay.
Không biết có phải nhờ công dụng của cả núi mật lợn khổng lồ ấy không mà Tr. lớn nhanh như thổi, khỏe như trâu. 17 tuổi, Tr. đã cao 1,8 mét, cơ bắp cuồn cuộn. Từ bé đến lớn chẳng bao giờ hắt hơi, sổ mũi, ốm đau gọi là. Và nghiễm nhiên, Tr. trở thành người kế thừa nghiệpđồ tểgia truyền.
![]() |
Kỹ năng giết mổ lợn của Tr. đạt đến trình độ thượng thừa, dù lợn to nặng đến mấy Tr. cũng chỉ làm một mình và rất nhanh |
Kỹ năng giết mổ lợn của Tr. đạt đến trình độ thượng thừa. Các tay đồ tể khác, khi giết mổ lợn, thường cần 2-3 người hỗ trợ giữ chân trước, chân sau. Riêng Tr., dù lợn to, nặng đến mấy, cũng chỉ làm một mình.
Tay lăm lăm chiếc chày gỗ lim đen bóng dài một thước trao truyền từ đời ông nội, áo xắn quá khuỷu, cơ bắp cuồn cuộn rắn đanh như lực sĩ, chân đi ủng cao đến gần đầu gối, Tr. rón rén bước gần đến con lợn đang lùi dần vào góc chuồng.
“Đốp”. Nhanh như chớp. Một nhát chày ngang gáy. Con lợn quay lơ, không kịp kêu một tiếng. “Đốp”. Con thứ hai đổ gục... Cứ thế, chỉ trong vài tích tắc, cả đàn lợn nằm lăn quay. Tr. khom mình, túm hai chân sau lôi xềnh xệch con lợn lên bệ xi măng lạnh ngắt. “Phập”.
Con dao bầu sáng loáng đâm một nhát trúng yết hầu. Máu tuôn xối xả xuống cái chậu nhôm to. Không giãy đành đạch. Không một tiếng kêu eng éc. Chọc tiết xong, Tr. liếc con dao bầu vào hòn đá mài to tổ chảng bên cạnh cho sắc lẹm, rồi cạo lông sồn sột, chẳng cần đến chảo nước nóng để nhúng lợn.
Bì lợn trắng bệch nhưng chân lông vẫn còn nguyên. “Chẳng sao. Bây giờ mấy ai còn ăn bì lợn”. Tr. giải thích. Nhẹ nhàng, nhàn nhã, thong dong, im ắng. Thế mà đến 5 giờ sáng, mấy con lợn đã làm xong. Thịt đã ra thịt, xương đã ra xương để các lái buôn chở đi.
Hoàng Anh Sướng
Tin liên quan
Cùng chuyên mục
Đọc thêm

Làng chài miền Tây giữa đại ngàn Tây Nguyên

Bài 5: Điểm tựa tâm linh trên đảo tiền tiêu

Bài 4: Sức sống xanh giữa mặn mòi biển cả

Bài 3: “ Mắt biển ” không bao giờ tắt

Bài 2: Lớp học đặc biệt giữa trùng khơi sóng gió

Những “cột mốc sống” ở Trường Sa

Những người lính quân hàm xanh vững vàng nơi biên cương

Hương Tết "làng" chổi đót

Bài 4: Gửi niềm tin, yêu thương ở lại
