- PV: Thưa ông, nhìn lại gần ba năm từ sau khi Việt Nam tham gia Công ước khung của Liên Hợp Quốc về biến đổi khí hậu lần thứ 26 (COP26) đến nay, ông đánh giá như thế nào về tinh thần và giá trị của cam kết giảm phát thải khí mê-tan mà Thủ tướng đã tuyên bố?
- Thạc sĩ Nguyễn Thế Lực, Viện trưởng Viện Khoa học Công nghệ và Giáo dục Việt Nam: Theo tôi, cam kết của Việt Nam tại COP26 là một tuyên bố mạnh mẽ và có tầm nhìn dài hạn. Việc đề ra mục tiêu phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050, chủ động tham gia các sáng kiến toàn cầu và nhấn mạnh giảm phát thải khí mê-tan cho thấy Việt Nam thực sự muốn trở thành một phần của nỗ lực quốc tế trong hạn chế mức tăng nhiệt toàn cầu.
![]() |
| Thạc sĩ Nguyễn Thế Lực, Viện trưởng Viện Khoa học Công nghệ và Giáo dục Việt Nam |
Đây không chỉ là trách nhiệm mà còn mở ra cơ hội để chúng ta tái cấu trúc nền kinh tế theo hướng xanh hơn, hiệu quả hơn. Tôi cho rằng đó là một lựa chọn đúng và cần thiết trong giai đoạn mới.
- PV: Ông đánh giá Chính phủ đã có những bước đi nào thể hiện quyết tâm trong triển khai cam kết này?
- Thạc sĩ Nguyễn Thế Lực, Viện trưởng Viện Khoa học Công nghệ và Giáo dục Việt Nam: Sau COP26 và COP27, với sự chỉ đạo quyết liệt của Thủ tướng Chính phủ, Ban Chỉ đạo quốc gia đã triển khai thực hiện cam kết; các bộ, ngành, cơ quan liên quan đã tham mưu trình Thủ tướng Chính phủ ban hành nhiều đề án, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch hành động.
Các bộ, ngành được giao nhiệm vụ xây dựng chiến lược, kế hoạch hành động liên quan đến biến đổi khí hậu, tăng trưởng xanh và đặc biệt là kế hoạch giảm phát thải khí mê-tan đến năm 2030.
Bộ Công thương cũng đã triển khai nhiều nội dung về chuyển đổi năng lượng, thúc đẩy năng lượng tái tạo, hoàn thiện quy hoạch điện nhằm giảm phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch.
Một điều đáng chú ý là Việt Nam đang củng cố hệ thống kiểm kê khí nhà kính toàn quốc, từng bước tăng cường khả năng đo đạc, báo cáo, thẩm định phát thải theo chuẩn quốc tế. Đây là nền tảng vô cùng quan trọng, đảm bảo rằng những cam kết đưa ra có thể được theo dõi, đánh giá một cách minh bạch và khách quan.
- PV: Trong bối cảnh nhiều chuyên gia cho rằng Việt Nam đang đứng trước “cơ hội xanh”, ông có nhận định như thế nào?
- Thạc sĩ Nguyễn Thế Lực, Viện trưởng Viện Khoa học Công nghệ và Giáo dục Việt Nam: Tôi nhận thấy cam kết giảm phát thải không chỉ là nghĩa vụ quốc tế mà còn là cơ hội để thu hút nguồn vốn đầu tư xanh, công nghệ sạch và các chương trình hỗ trợ từ các tổ chức phát triển.
Nhiều tập đoàn quốc tế hiện đặt tiêu chuẩn rất cao về phát thải trong chuỗi cung ứng, và doanh nghiệp Việt Nam nếu đi trước sẽ có lợi thế cạnh tranh đáng kể. Chúng ta cũng thấy rõ việc thúc đẩy năng lượng tái tạo đang tạo ra một thị trường mới, thu hút các nhà đầu tư lớn, vừa giúp giảm phát thải vừa góp phần đảm bảo an ninh năng lượng.
![]() |
| Tập trung phát triển năng lượng sạch, năng lượng xanh là một trong những nỗ lực của Việt Nam để triển khai các cam kết tại COP26. |
Một cơ hội khác nằm ở lĩnh vực nông nghiệp và quản lý rác thải. Việc giảm phát thải mê-tan, nếu làm tốt, sẽ giúp tăng hiệu quả sản xuất, cải thiện môi trường và nâng cao giá trị nông sản. Điều này rất phù hợp với định hướng phát triển nông nghiệp bền vững mà Việt Nam đang theo đuổi.
- PV: Vậy theo ông, đâu là những hướng đi mà Việt Nam cần ưu tiên trong thời gian tới để bảo đảm cam kết tại COP26 thực sự đi vào cuộc sống?
- Thạc sĩ Nguyễn Thế Lực, Viện trưởng Viện Khoa học Công nghệ và Giáo dục Việt Nam: Tôi nghĩ rằng điều quan trọng nhất là tiếp tục hoàn thiện khung chính sách. Các chiến lược, quy hoạch và kế hoạch hành động phải được cập nhật thường xuyên, dựa trên dữ liệu thực tế và phù hợp với yêu cầu quốc tế. Bên cạnh đó, cần thúc đẩy mạnh hơn sự tham gia của doanh nghiệp, vì khu vực này giữ vai trò nòng cốt trong việc giảm phát thải.
Việc nâng cao năng lực đo đạc và báo cáo cũng là ưu tiên then chốt. Nếu không có dữ liệu chuẩn xác, rất khó để đánh giá hiệu quả giảm phát thải hay thu hút các nguồn lực quốc tế.
Song song với đó, cần tăng cường truyền thông để người dân và cộng đồng hiểu rằng giảm phát thải mê-tan không chỉ liên quan đến cấp trung ương hay các tập đoàn lớn, mà còn bắt đầu từ những thay đổi rất nhỏ trong sản xuất và sinh hoạt hằng ngày.
Cuối cùng, tôi tin rằng hợp tác quốc tế sẽ là “chìa khóa”. Việt Nam có thể tận dụng các cơ chế tài chính xanh, chương trình hỗ trợ kỹ thuật và công nghệ tiên tiến để rút ngắn quá trình chuyển đổi, thay vì phải tự làm tất cả từ đầu.
PV: Xin trân trọng cảm ơn ông!




