Nhiều kỹ thuật được áp dụng nhằm giảm phát thải khí mê-tan
Các kỹ thuật giảm phát thải trong chăn nuôi
Trong cơ cấu phát thải khí nhà kính của Việt Nam, nông nghiệp chiếm khoảng 33%, trong đó chăn nuôi là nguồn chính tạo ra khí mê-tan. Loại khí này hình thành từ hai quá trình chính: Tiêu hóa của động vật nhai lại và xử lý chất thải trong điều kiện yếm khí.
Những năm qua, các viện nghiên cứu, doanh nghiệp và nông hộ đã thử nghiệm nhiều giải pháp khác nhau để cắt giảm khí mê-tan mà vẫn đảm bảo hiệu quả chăn nuôi. Nhiều kỹ thuật hiện đã chứng minh hiệu quả rõ rệt và được xem là những lựa chọn tốt nhất để ứng dụng rộng rãi.
Một trong những biện pháp nổi bật là điều chỉnh khẩu phần ăn của gia súc, đặc biệt là bò và trâu. Khi vật nuôi ăn nhiều thức ăn thô xanh như cỏ, rơm rạ, quá trình lên men trong dạ cỏ sẽ sinh ra nhiều mê-tan. Do đó, việc bổ sung thức ăn tinh như ngũ cốc, bột ngô, khô dầu đậu nành hoặc các loại phụ gia dinh dưỡng giúp hệ vi sinh trong dạ cỏ hoạt động hiệu quả hơn, giảm lượng khí thải.
![]() |
| Người nông dân áp dụng các kỹ thuật ủ thức ăn, tận dụng phế phẩm phụ làm thức ăn chăn nuôi giảm phát thải khí mê-tan |
Ngoài ra, việc bổ sung một số phụ gia đặc biệt cũng cho thấy hiệu quả rõ rệt. Nhiều nghiên cứu trên thế giới đã chứng minh rằng tảo đỏ có thể cắt giảm tới 80% lượng mê-tan sinh ra trong dạ cỏ. Tại Việt Nam, các nhà khoa học đang thử nghiệm các nguồn nguyên liệu bản địa như dầu cọ, chiết xuất lá chè hoặc tannin từ vỏ cây keo nhằm tìm ra giải pháp phù hợp với điều kiện tự nhiên và giá thành hợp lý.
Men vi sinh cũng là một kỹ thuật mới đang được khuyến khích. Khi bổ sung các chủng vi sinh có lợi vào khẩu phần, quá trình phân giải thức ăn trong dạ cỏ sẽ chuyển hướng, giúp giảm lượng mê-tan phát sinh đồng thời tăng khả năng hấp thụ dinh dưỡng. Đây là biện pháp vừa có lợi cho môi trường, vừa nâng cao năng suất chăn nuôi.
Nếu cải thiện thức ăn là cách giảm khí thải từ tiêu hóa, thì quản lý chất thải chính là chìa khóa để kiểm soát nguồn mê-tan từ chuồng trại. Kỹ thuật phổ biến nhất hiện nay là sử dụng hầm biogas. Khi phân được đưa vào hầm kín, khí mê-tan sinh ra sẽ được thu gom để làm chất đốt nấu ăn hoặc chạy máy phát điện.
Nhờ vậy, không chỉ giảm phát thải ra môi trường mà còn mang lại lợi ích kinh tế rõ rệt cho nông hộ. Hiện cả nước có khoảng nửa triệu hầm biogas các loại, song con số này vẫn còn nhỏ so với tổng số hộ chăn nuôi. Việc mở rộng quy mô và nâng cấp công nghệ biogas sẽ là một trong những hướng đi chủ lực.
Ngoài biogas, ủ phân hữu cơ hiếu khí cũng được đánh giá cao. Bằng cách trộn phân với phụ liệu như rơm rạ, mùn cưa rồi đảo trộn thường xuyên, quá trình phân hủy diễn ra trong điều kiện có oxy, hạn chế phát sinh mê-tan. Sản phẩm cuối cùng là phân compost có giá trị sử dụng cao cho cây trồng, giúp giảm chi phí mua phân bón hóa học.
Các trang trại quy mô lớn đang bắt đầu ứng dụng công nghệ xử lý tiên tiến hơn, như thu hồi khí sinh học để phát điện, tách phân rắn và lỏng để sử dụng riêng biệt, hoặc áp dụng mô hình chăn nuôi tuần hoàn kết hợp trồng trọt. Những kỹ thuật này tuy đòi hỏi đầu tư ban đầu lớn nhưng đem lại lợi ích lâu dài cả về môi trường lẫn kinh tế, góp phần tích cực vào cuộc chiến chống biến đổi khí hậu toàn cầu.
![]() |
| Hội LHPN phường Kim Liên (Hà Nội) tổ chức tuyên truyền thu gom, phân loại rác thải đúng quy định nhằm giảm phát thải thải khí mê-tan |
“Xanh hóa” sản phẩm trở thành lựa chọn chiến lược
Cùng với phát thải từ chăn nuôi, các loại bao bì: Chai nhựa, túi nilon, hộp giấy, lon kim loại... bị vứt bỏ và xử lý không đúng cách có thể gây ô nhiễm đất, nước, không khí. Đặc biệt, rác thải hữu cơ trong bao bì, nếu bị chôn lấp sẽ phân hủy sinh ra khí mê-tan.
Theo các nghiên cứu, bao bì chiếm khoảng 30 đến 40% tổng lượng rác thải rắn sinh hoạt tại nhiều đô thị. Túi nilon, hộp xốp hay chai nhựa có thời gian phân hủy hàng trăm năm, trong khi rác hữu cơ từ bao bì thực phẩm lại nhanh chóng phân rã trong điều kiện yếm khí tại bãi rác, tạo ra lượng lớn khí mê-tan. Đây chính là nguyên nhân khiến việc quản lý bao bì sau tiêu dùng trở thành một trong những thách thức lớn nhất đối với công tác bảo vệ môi trường.
Tại nhiều quốc gia trên thế giới, các doanh nghiệp, đơn vị trực tiếp sản xuất và đưa bao bì ra thị trường phải có trách nhiệm quay vòng và xử lý. Nhiều quốc gia đã áp dụng mô hình trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (EPR), theo đó doanh nghiệp phải thu hồi và tái chế bao bì sau khi sản phẩm đã tiêu thụ.
Tại Việt Nam, quy định về EPR được đưa vào Luật Bảo vệ môi trường 2020, yêu cầu các doanh nghiệp đóng góp kinh phí hoặc trực tiếp tổ chức thu gom, tái chế. Thực tế, nhiều doanh nghiệp đã có bước đi tích cực. Các hãng đồ uống triển khai chương trình thu hồi chai nhựa PET; một số công ty thực phẩm hợp tác với siêu thị để đặt điểm thu gom bao bì. Ngành hàng tiêu dùng nhanh cũng đang chuyển dần sang bao bì giấy, bao bì phân hủy sinh học. Đây là những giải pháp không chỉ giảm lượng rác thải chôn lấp, mà còn hạn chế phát sinh khí mê-tan từ rác hữu cơ lẫn tạp trong bao bì.
Điểm sáng là xu hướng “xanh hóa” sản phẩm ngày càng trở thành lựa chọn chiến lược. Bao bì tái chế từ nhựa đã qua sử dụng (PCR - Post-consumer recycled) hay bao bì có thể phân hủy sinh học được các doanh nghiệp nghiên cứu, áp dụng. Một chai nước khoáng làm từ 50% nhựa tái chế chẳng những giúp giảm áp lực tài nguyên mà còn góp phần xây dựng hình ảnh thân thiện cho thương hiệu. Ngoài ra, việc khuyến khích người tiêu dùng tái sử dụng túi, chai, hộp nhiều lần cũng là cách hiệu quả để kéo dài vòng đời bao bì, giảm đáng kể lượng rác phải đem chôn lấp.
Bên cạnh giảm rác chôn lấp thì việc áp dụng các kỹ thuật giảm phát thải khí mê-tan trong khai thác nhiên liệu hoá thạch cũng được coi là “mặt trận then chốt” trong lộ trình của Việt Nam. Dù chiếm tỷ trọng nhỏ hơn nông nghiệp và rác thải, nhưng với tiềm năng cắt giảm sâu, đây chính là nơi có thể tạo nên bước ngoặt nếu được đầu tư đúng hướng.
![]() |
| Mê-tan tích tụ ở trên nóc lò trong quá trình khai thác than |
Trong ngành than, các công ty khai thác đã mở rộng các dự án thu hồi khí mỏ than (CMM) tại Quảng Ninh và các mỏ lớn khác. Đây vừa là giải pháp giảm phát thải, vừa đảm bảo an toàn cho thợ mỏ. Trong ngành dầu khí, tiến hành giảm mạnh đốt bỏ (flaring) và thông khí (venting), triển khai rộng rãi công nghệ phát hiện và sửa chữa rò rỉ (LDAR). Hoàn thiện hệ thống MRV (giám sát - báo cáo - thẩm định) trong lĩnh vực năng lượng, đảm bảo minh bạch dữ liệu phát thải, tạo cơ sở để tham gia thị trường carbon.
Khuyến khích xây dựng cơ chế giá điện rõ ràng cho điện sản xuất từ khí mỏ và cơ chế tín chỉ carbon cho các dự án thu hồi khí đồng hành. Mục tiêu là đến năm 2030, lĩnh vực năng lượng phải giảm ít nhất 30% phát thải mê-tan so với năm 2020, góp phần quan trọng vào mục tiêu quốc gia.
Đến giai đoạn 2030 - 2050, sẽ chấm dứt hoàn toàn việc đốt bỏ khí đồng hành, toàn bộ lượng khí phát sinh từ khai thác dầu khí phải được thu hồi, xử lý hoặc tái sử dụng. Tất cả các mỏ hầm lò phải được trang bị hệ thống thu hồi khí mê-tan, không để khí phát tán tự do. Khí mê-tan được thu hồi trở thành nguồn nguyên liệu quan trọng cho sản xuất điện, khí hóa lỏng (LNG) và công nghiệp… Qua đó không chỉ là giảm phát thải, mà còn chuyển đổi toàn diện để vừa đảm bảo an ninh năng lượng, vừa thực hiện thành công cam kết phát thải ròng bằng 0.
Tin liên quan
Đọc thêm
Môi trường
Giảm rác thải nông nghiệp - Hướng đi tất yếu cho nền nông nghiệp xanh
Môi trường
Tái sử dụng nước thải trong nông nghiệp để giảm phát thải khí mê-tan
Môi trường
Hàng hải đẩy mạnh phát triển “cảng xanh”, giảm phát thải khí mê-tan
Xã hội
Lũ trên sông Ba đang xuống, vùng hạ du thiệt hại nặng nề
Môi trường
Hà Nội sáng và đêm trời rét
Môi trường
Tuyệt đối không để người dân bị cô lập mà không được cứu giúp kịp thời
Môi trường
Huy động mọi lực lượng, bằng mọi cách cứu người trong mưa lũ
Môi trường
Cử tri Hà Nội kiến nghị sớm giải quyết úng ngập, môi trường
Xã hội
Đắk Lắk họp khẩn ứng phó mưa lớn, ngập lụt khu vực phía Đông
Môi trường





