Tuyên truyền lợi ích của việc bảo vệ rừng đối với đồng bào dân tộc thiểu số
- PV: Những năm gần đây, việc tuyên truyền bảo vệ và phát triển rừng đối với đồng bào dân tộc thiểu số đang được đẩy mạnh tại nhiều địa phương. Ông đánh giá như thế nào về tầm quan trọng của chiến lược này trong bối cảnh hiện nay?
- Thạc sĩ Nguyễn Thế Lực, Viện trưởng Viện Khoa học Công nghệ và Giáo dục Việt Nam: Tôi cho rằng đẩy mạnh tuyên truyền với đồng bào thiểu số về bảo vệ rừng là một bước rất then chốt. Trên thực tế rằng nhiều vùng đồng bào dân tộc thiểu số vẫn giữ mối gắn sâu sắc với thiên nhiên và rừng là một phần quan trọng trong đời sống, sinh kế và văn hóa của họ.
![]() |
| Thạc sĩ Nguyễn Thế Lực, Viện trưởng Viện Khoa học Công nghệ và Giáo dục Việt Nam |
Khi hiểu rõ rằng rừng không chỉ là nguồn gỗ mà còn mang lại lợi ích lâu dài như điều hòa khí hậu, bảo vệ đất, nguồn nước và giá trị kinh tế từ dịch vụ môi trường rừng, người dân thiểu số sẽ có động lực tự nhiên để tham gia vào công tác giữ rừng. Đây không chỉ là bảo tồn tài nguyên mà còn là bảo vệ quyền lợi thiết thực cộng đồng - tức là tuyên truyền phải song hành với triển khai chính sách và hỗ trợ người dân tham gia quản lý rừng bền vững.
- PV: Để nâng cao ý thức bảo vệ rừng của đồng bào dân tộc thiểu số, việc tuyên truyền cần được triển khai sâu rộng, các hình thức tuyên truyền phong phú trực quan sinh động, dễ nhớ dễ hiểu. Theo ông, đâu là yếu tố then chốt để mô hình tuyên truyền bảo vệ rừng ở cộng đồng thiểu số thực sự hiệu quả và bền vững?
- Thạc sĩ Nguyễn Thế Lực, Viện trưởng Viện Khoa học Công nghệ và Giáo dục Việt Nam: Hiệu quả tuyên truyền bảo vệ rừng trong đồng bào thiểu số phụ thuộc vào nhiều yếu tố nhưng theo kinh nghiệm của tôi, ba yếu tố rất quan trọng. Thứ nhất là “cộng đồng làm chủ”: Khi các già làng, trưởng bản hoặc người có uy tín trong cộng đồng cùng tham gia tuyên truyền, thì thông điệp về bảo vệ rừng dễ đi vào lòng người.
Thứ hai là nội dung tuyên truyền phải gắn liền sinh kế: Nếu người dân thấy rõ rằng việc giữ rừng sẽ giúp họ phát triển kinh tế (ví dụ tham gia chi trả dịch vụ môi trường rừng, thu nhập từ du lịch rừng hoặc các cây rừng bản địa), thì họ mới coi việc bảo vệ rừng là điều có lợi cho mình. Thứ ba là phương pháp truyền thông: Sử dụng cả hội thảo thôn, chiếu phim, phát tờ rơi bằng ngôn ngữ dân tộc, kèm các buổi gặp gỡ định kỳ - như nhiều địa phương đã thực hiện - sẽ tạo nên “sự lan tỏa” và khả năng duy trì lâu dài.
- PV: Nhân rộng tuyên truyền là một mặt nhưng việc bảo vệ rừng còn yêu cầu các chính sách hỗ trợ thực tế. Theo ông, Nhà nước cần có những cơ chế gì để khuyến khích đồng bào thiểu số chủ động giữ gìn rừng?
- Thạc sĩ Nguyễn Thế Lực - Viện trưởng Viện Khoa học Công nghệ và Giáo dục Việt Nam: Tôi cho rằng Nhà nước cần tiếp tục triển khai và mở rộng cơ chế chi trả dịch vụ môi trường rừng, đặc biệt ưu tiên cho cộng đồng dân tộc thiểu số ở vùng có rừng. Khi người dân được hưởng lợi kinh tế từ việc bảo vệ rừng, họ sẽ tham gia chủ động hơn. Bên cạnh đó, chúng ta cần có các dự án đào tạo kỹ năng quản lý rừng, bảo vệ rừng cho người dân để họ trở thành lực lượng nòng cốt tham gia công tác bảo vệ.
![]() |
| Thạc sĩ Nguyễn Thế Lực, Viện trưởng Viện Khoa học Công nghệ và Giáo dục Việt Nam tham gia hoạt động trồng cây, bảo vệ môi trường tại trường Cao đẳng Dược Hà Nội |
Cơ chế hỗ trợ trang thiết bị như dụng cụ tuần tra, công cụ báo cháy rừng gắn liền với công tác tuyên truyền cũng rất quan trọng để người dân cùng phối hợp với kiểm lâm. Cuối cùng, minh bạch hóa quy trình chi trả và kiểm soát để đảm bảo người dân nhận đúng lợi ích, tránh tình trạng chi trả trục lợi.
- PV: Với vai trò là một nhà nghiên cứu và quản lý giáo dục, ông có đề xuất gì cho các chương trình giáo dục - tuyên truyền tại các thôn, bả, vùng đồng bào dân tộc thiểu số để phát huy hiệu quả lâu dài trong việc giữ rừng?
- Thạc sĩ Nguyễn Thế Lực, Viện trưởng Viện Khoa học Công nghệ và Giáo dục Việt Nam: Về giáo dục, tôi đề xuất đưa nội dung bảo vệ rừng vào chương trình giảng dạy ở các trường học vùng dân tộc thiểu số, sử dụng hình thức giáo dục môi trường ngay tại thôn, bản - như buổi học dưới tán rừng, trải nghiệm rừng. Đồng thời, cần đào tạo các “tuyên truyền viên bản địa” đó là những người dân dân tộc biết đọc, viết, hiểu chính sách về rừng để truyền lại cho cộng đồng.
Ngoài ra, chúng ta nên áp dụng công nghệ số: Sử dụng video, clip ngắn tuyên truyền về lợi ích rừng, được lồng bằng tiếng dân tộc để dễ tiếp cận. Cuối cùng, việc tổ chức các hoạt động cộng đồng như “Ngày hội rừng bản” kết hợp với trồng cây, chăm sóc rừng sẽ tạo ra dấu ấn sâu trong nhận thức người dân và từ đó hình thành trách nhiệm bảo vệ rừng lâu dài.
PV: Xin cảm ơn thạc sĩ Nguyễn Thế Lực về những chia sẻ rất sâu sắc và thiết thực!
Tin liên quan
Cùng chuyên mục
Đọc thêm
Môi trường
Hà Nội sáng và đêm trời rét
Môi trường
Tuyệt đối không để người dân bị cô lập mà không được cứu giúp kịp thời
Môi trường
Huy động mọi lực lượng, bằng mọi cách cứu người trong mưa lũ
Môi trường
Đẩy mạnh tuyên truyền giảm phát thải, tiết kiệm năng lượng
Môi trường
Cử tri Hà Nội kiến nghị sớm giải quyết úng ngập, môi trường
Xã hội
Đắk Lắk họp khẩn ứng phó mưa lớn, ngập lụt khu vực phía Đông
Môi trường
Triển khai các biện pháp cấp bách ứng phó với mưa lũ đặc biệt lớn tại Khánh Hòa, Đắk Lắk và Gia Lai
Xã hội
Lũ đặc biệt trên sông Ba đã vượt mức lịch sử năm 1993
Môi trường
Gia Lai khẩn cấp sơ tán hàng nghìn dân khỏi vùng nguy hiểm
Xã hội




