Giảm thiểu lượng rác thải nông nghiệp gây ra phát thải khí mê-tan
Tái sử dụng phụ phẩm nông nghiệp - hướng đi giảm phát thải bền vững
Theo số liệu kiểm kê khí nhà kính quốc gia năm 2020, tổng phát thải của Việt Nam đạt khoảng 454,6 triệu tấn khí nhà kính, khí mê-tan, CO₂ tương đương, gần gấp đôi so với năm 2010. Trong đó, nông nghiệp chiếm khoảng 116,51 triệu tấn, riêng trồng trọt (chủ yếu từ canh tác lúa, một số cây trồng chủ lực và việc đốt phụ phẩm nông nghiệp ngoài đồng) chiếm tới 80% phát thải của toàn ngành.
![]() |
| Hàng tấn rơm rạ trên các vùng đồng ruộng tại đồng bằng sông Cửa Long |
Theo thống kê, riêng đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) mỗi năm phát sinh hơn 24 triệu tấn rơm rạ, trong đó khoảng 70% bị đốt bỏ tại chỗ.
Hoạt động này không chỉ làm suy giảm chất lượng không khí, phát thải hàng tấn khí nhà kính mê-tan, CO2 và bụi mịn PM2.5, mà còn gây thiệt hại kinh tế ước tính hơn 400 nghìn tỷ đồng mỗi năm, theo Clean Air Asia và UNEP. Trong khi đó, rơm rạ hoàn toàn có thể trở thành nguồn nguyên liệu tái tạo, góp phần hình thành chuỗi giá trị tuần hoàn trong ngành lúa gạo.
Nhiều mô hình tại Việt Nam đã cho thấy tiềm năng rõ rệt. Tại Quảng Trị, nông dân chuyển từ đốt rơm sang ủ compost kết hợp chế phẩm vi sinh, tạo ra 600 - 700 kg phân hữu cơ trên mỗi tấn rơm khô, giúp tiết kiệm chi phí phân bón hóa học.
Ở Đồng Tháp, mô hình trồng nấm rơm từ rơm rạ mang lại lợi nhuận 10 - 15 triệu đồng mỗi vụ, đồng thời tận dụng phần bã sau thu hoạch làm phân hữu cơ. Một số doanh nghiệp tại Tây Ninh và Kiên Giang còn thử nghiệm sản xuất viên nén sinh khối, hướng tới xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản và Châu Âu.
Theo Viện Nghiên cứu Lúa Quốc tế (IRRI), nếu được thu gom và tái sử dụng hiệu quả, rơm rạ có thể giúp tăng thu nhập nông dân 30 - 40% so với canh tác truyền thống, đồng thời giảm từ 5 - 6 tấn CO₂ tương đương trên mỗi hecta. Tiềm năng này càng đáng chú ý khi Việt Nam đang hướng tới xây dựng thị trường tín chỉ carbon - nơi rơm rạ có thể trở thành “tài sản xanh” mới của ngành nông nghiệp.
Từ rơm rạ, vỏ trấu đến chăn nuôi tuần hoàn khép kín
Không chỉ trong trồng trọt, lĩnh vực chăn nuôi cũng là nguồn phát thải mê-tan đáng kể. Phát thải khí nhà kính từ chăn nuôi bao gồm 2 nguồn chính: Khí mê tan từ dạ cỏ của động vật nhai lại và khí CH4, N2O từ phân động vật.
Phát thải khí mê tan từ phân động vật gây ra trong điều kiện yếm khí trong các hầm khí sinh học (biogas) hoặc ở những nơi chứa phân động vật số lượng lớn nhưng điều kiện thông khí kém.
![]() |
| Lĩnh vực chăn nuôi cũng là nguồn phát thải mê-tan đáng kể |
Do vậy, phát thải khí mê tan lớn nhất thường xảy ra đối với các động vật chăn nuôi tập trung và sử dụng nhiều nước để làm vệ sinh chuồng trại như chăn nuôi lợn thịt và bò sữa dẫn đến phân động vật hòa lẫn vào nước dưới dạng lỏng, tạo điều kiện cho vi khuẩn kị khí hoạt động.
Đối với động vật chăn nuôi quảng canh thì phát thải khí mê tan từ phân động vật là không đáng kể do phân động vật thải ra thường được phân hủy trong điều kiện hiếu khí.
Đứng thứ hai trong cơ cấu phát thải nông nghiệp là chăn nuôi, chiếm khoảng 33% tổng phát thải mê-tan của toàn ngành. Nguyên nhân chính là từ chất thải của đàn lợn, bò, gia cầm khi phân hủy yếm khí. TS. Lê Thị Thanh Huyền, Viện Chăn nuôi, nhấn mạnh tại hội thảo: “Giải pháp xây dựng và sử dụng hầm biogas không chỉ giảm phát thải mê-tan mà còn mang lại nguồn năng lượng sạch cho hộ chăn nuôi, giúp tiết kiệm chi phí”.
Theo TS. Lê Thị Thanh Huyền, cả nước hiện đã có hơn 500.000 hầm biogas hộ gia đình, nhưng đa phần quy mô nhỏ, hiệu suất thấp. Nếu phát triển hầm biogas tập trung tại trang trại lớn, kết hợp công nghệ phát điện, nguồn năng lượng này có thể thay thế một phần than, củi ở nông thôn và tạo lợi ích kép: giảm ô nhiễm, tăng thu nhập.
Bên cạnh đó, TS. Lê Thị Thanh Huyền cũng đề cập đến giải pháp cải thiện khẩu phần ăn của gia súc: “Các loại thức ăn bổ sung hoặc điều chỉnh khẩu phần, ví dụ như phụ phẩm công nghiệp, tảo biển, hay các chất ức chế sinh mê-tan có thể giúp giảm đáng kể lượng khí phát thải từ quá trình lên men đường ruột ở gia súc nhai lại".
Đây là hướng đi mới, đòi hỏi nghiên cứu kỹ lưỡng để đảm bảo an toàn và chi phí phù hợp. Thực chứng từ mô hình thí điểm. Không chỉ là lý thuyết, các mô hình thí điểm cho thấy hiệu quả kép về kinh tế và môi trường.
Ví dụ như mô hình rơm ủ urê cho bò thịt (áp dụng tại HTX Lúa Vàng, tài trợ bởi Cơ quan Hợp tác quốc tế Đức (GIZ), bò ăn rơm ủ urê có tốc độ tăng trọng cao hơn, giảm cường độ phát thải CH₄, đồng thời giúp hộ nuôi tăng lợi nhuận thêm 292.000 đồng/con trong 60 ngày so với sử dụng rơm khô.
Giảm thiểu lượng rác thải nông nghiệp không chỉ là giải pháp bảo vệ môi trường mà còn mở ra hướng phát triển kinh tế xanh cho nông thôn Việt Nam. Khi rơm rạ, vỏ trấu, phân chuồng… được coi là nguồn tài nguyên tái tạo, không phải “rác thải”, nông nghiệp Việt Nam sẽ tiến gần hơn tới mục tiêu phát thải ròng bằng 0 và tăng trưởng bền vững trong chuỗi giá trị nông sản.
Tin liên quan
Cùng chuyên mục
Đọc thêm
Môi trường
Mạnh tay xử lý những “hung thần" gây ô nhiễm đường phố Hà Nội
Môi trường
Khẩn trương đánh giá thiệt hại và khắc phục nhanh hậu quả bão, lũ tại Trung Bộ
Môi trường
Bão số 14 đổi hướng, Bắc Bộ đón không khí lạnh tăng cường
Môi trường
Việc chống khai thác IUU là vì danh dự, uy tín và lợi ích của đất nước, dân tộc
Môi trường
Thống nhất, đồng bộ, có phương án hỗ trợ phù hợp
Môi trường
Không khí lạnh tăng cường, vùng núi Bắc Bộ có nơi dưới 13 độ C
Xã hội
Ngôi nhà của cụ bà 71 tuổi bị lũ cuốn trôi theo dòng Vu Gia
Môi trường
Quảng Ngãi: Tạm ngừng hoạt động cơ sở sấy cà phê gây ô nhiễm
Xã hội
Đà Nẵng: Người dân bàng hoàng khi đất đai bị cuốn trôi sau lũ
Môi trường




