Hoàn thiện khung pháp lý - nền tảng thúc đẩy giảm thải khí mê-tan
| Thúc đẩy giảm phát thải khí mê-tan trong khai thác than |
Xung quanh vấn đề này, phóng viên báo Tuổi trẻ Thủ đô đã có cuộc trao đổi với PGS.TS Phạm Mai Thảo, Trưởng Bộ môn Quản lý môi trường, khoa Môi trường, Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội.
Vì sao cần ưu tiên giảm phát thải khí mê-tan?
- PV: Thưa bà, hiện nay tình hình phát thải khí mê-tan ở Việt Nam đang ở mức nào so với khu vực và thế giới?
- PGS.TS Phạm Mai Thảo: Tình hình phát thải khí mê-tan (CH₄) của Việt Nam hiện không nằm trong nhóm 20 quốc gia phát thải lớn nhất thế giới theo dữ liệu của IEA Methane Tracker. Tuy nhiên, vai trò của Việt Nam vẫn mang tính chiến lược, đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp, nguồn phát thải mê-tan chủ yếu của quốc gia và của thế giới.
Cơ cấu phát thải của Việt Nam có đặc điểm khác biệt rõ rệt so với các nước công nghiệp: Nông nghiệp chiếm khoảng 67% tổng lượng CH₄, trong đó canh tác lúa nước đóng góp tới 75% lượng phát thải nông nghiệp, tương đương gần 50% tổng phát thải CH₄ quốc gia. Trong khi đó, ở nhiều quốc gia phát triển, ngành năng lượng (khai thác dầu khí, than đá) lại là nguồn phát thải chính, chiếm khoảng 40% tổng phát thải CH₄ toàn cầu.
![]() |
| PGS.TS Phạm Mai Thảo |
Bên cạnh nông nghiệp, các lĩnh vực năng lượng và quản lý chất thải cũng được Việt Nam đưa vào Kế hoạch hành động quốc gia giảm thiểu mêtan đến năm 2030, với các mục tiêu giảm phát thải cụ thể và quy định kiểm kê khí nhà kính bắt buộc.
- PV: Vì sao việc giảm phát thải khí mê-tan lại được xem là một trong những ưu tiên hàng đầu trong ứng phó với biến đổi khí hậu, thưa bà?
- PGS.TS Phạm Mai Thảo: Việc giảm phát thải khí mêtan (CH₄) được xem là một trong những ưu tiên hàng đầu trong ứng phó biến đổi khí hậu, bởi đặc tính vật lý và hóa học của khí này mang lại hiệu quả giảm nhiệt độ nhanh và rõ rệt trong ngắn hạn. Mê-tan được coi là “đòn bẩy khí hậu” mạnh mẽ, giúp thế giới, trong đó có Việt Nam có thêm thời gian quý báu để chuyển đổi khỏi năng lượng hóa thạch, một quá trình dài hạn và tốn kém hơn nhiều.
Mê-tan là khí nhà kính có tiềm năng gây nóng toàn cầu (GWP) cao gấp khoảng 27-30 lần CO₂ trong chu kỳ 100 năm, và còn lớn hơn nhiều nếu xét trong 20 năm. Tuy nhiên, tuổi thọ của CH₄ trong khí quyển chỉ khoảng 12 năm, ngắn hơn rất nhiều so với CO₂ (tồn tại hàng trăm đến hàng nghìn năm). Chính sự kết hợp giữa khả năng giữ nhiệt cực mạnh và thời gian tồn tại ngắn khiến việc cắt giảm CH₄ có thể mang lại hiệu quả làm chậm tốc độ nóng lên toàn cầu trong vài thập kỷ tới.
Theo các đánh giá khoa học quốc tế, nếu triển khai đầy đủ các biện pháp giảm phát thải mêtan khả thi trong thập kỷ này, thế giới có thể tránh được gần 0,3°C nóng lên vào khoảng năm 2040, góp phần duy trì mục tiêu giới hạn nhiệt độ tăng không quá 1,5°C theo Thỏa thuận Paris. Thủ tướng Phạm Minh Chính tại COP26 cũng nhấn mạnh rằng, giảm phát thải mê-tan là “giải pháp nhanh nhất, hiệu quả nhất về chi phí và lợi ích” trong bối cảnh khẩn cấp khí hậu hiện nay.
Bên cạnh lợi ích khí hậu, việc giảm mê-tan còn mang lại đa lợi ích đồng thời (co-benefits) về kinh tế, sức khỏe và môi trường. CH₄ là tiền chất hình thành ozone tầng đối lưu, thành phần chính của sương khói, gây ô nhiễm không khí và tổn hại sức khỏe.
Giảm mê-tan giúp cải thiện chất lượng không khí, giảm chi phí y tế và bảo vệ cây trồng, bởi ozone tầng đối lưu còn gây hại năng suất nông nghiệp. Ngoài ra, các giải pháp giảm mê-tan trong lĩnh vực chất thải và chăn nuôi (như thu hồi khí bãi chôn lấp để phát điện hay phát triển biogas) giúp chuyển hóa chất thải thành năng lượng tái tạo, thúc đẩy kinh tế tuần hoàn và tạo nguồn thu nhập mới.
![]() |
| PGS.TS Phạm Mai Thảo hiện là Trưởng Bộ môn Quản lý môi trường, khoa Môi trường, Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội |
Tóm lại, ưu tiên giảm phát thải CH₄ là một chiến lược “thắng lợi kép”, vừa góp phần ứng phó nhanh với biến đổi khí hậu, vừa mang lại lợi ích kinh tế - xã hội và sức khỏe cộng đồng ngay trong ngắn hạn.
Đánh giá khung pháp lý và chính sách hiện hành
- PV: Bà đánh giá thế nào về khung pháp lý, chính sách hiện có của Việt Nam liên quan đến quản lý và giảm phát thải khí mê-tan?
- PGS.TS Phạm Mai Thảo: Khung pháp lý và chính sách của Việt Nam về quản lý và giảm phát thải khí mê-tan (CH₄) đã được hình thành khá đầy đủ, thể hiện cam kết mạnh mẽ của Chính phủ trong thực hiện mục tiêu phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050. Luật Bảo vệ Môi trường 2020 là nền tảng cao nhất, lần đầu tiên quy định rõ việc kiểm kê, giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và phát triển thị trường carbon trong nước.
Nghị định 06/2022/NĐ-CP cụ thể hóa các quy định này, xác định lộ trình thực hiện kiểm kê và giảm phát thải bắt buộc cho các cơ sở lớn từ năm 2026. Nghị định 119/2025/NĐ-CP là một văn bản pháp quy quan trọng của Việt Nam về thị trường carbon, ban hành ngày 09/06/2025, có hiệu lực từ 01/08/2025. Nghị định này sửa đổi, bổ sung Nghị định 06/2022/NĐ-CP, hoàn thiện hành lang pháp lý để vận hành thị trường carbon, bao gồm việc phân bổ hạn ngạch phát thải cho các cơ sở, xây dựng hệ thống đăng ký các-bon quốc gia và lùi thời điểm vận hành chính thức thị trường vào năm 2029.
Bên cạnh đó, Quyết định 818/QĐ-TTg ban hành Kế hoạch Hành động Giảm phát thải Mêtan đến năm 2030 đã xác định rõ định hướng giảm phát thải trong ba lĩnh vực trọng điểm: Nông nghiệp, quản lý chất thải và năng lượng. Tuy nhiên, việc triển khai vẫn đối mặt với nhiều thách thức, đặc biệt là thiếu sự hài hòa trong hệ thống MRV (đo đạc, báo cáo, thẩm định) giữa các bộ, thiếu nguồn lực tài chính cho chuyển đổi công nghệ và khó khăn trong kiểm soát nguồn phát thải phân tán như canh tác lúa nước.
Nhìn chung, Việt Nam đã có khung pháp lý đầy đủ và định hướng rõ ràng nhưng để đạt hiệu quả thực chất, cần đẩy nhanh ban hành hướng dẫn kỹ thuật thống nhất, thúc đẩy cơ chế tài chính, tín chỉ carbon hỗ trợ nông nghiệp carbon thấp, và vận hành thị trường carbon minh bạch, hiệu quả. Đây sẽ là các yếu tố quyết định thành công của chiến lược giảm phát thải mê-tan và thực hiện cam kết khí hậu quốc gia.
- PV: Các quy định hiện hành đã đủ rõ và thống nhất giữa các lĩnh vực (nông nghiệp, năng lượng, chất thải...) chưa, thưa bà?
- PGS.TS Phạm Mai Thảo: Khung pháp lý về giảm phát thải mê-tan (CH₄) của Việt Nam đã rõ ràng ở cấp chiến lược và pháp lý, song tính thống nhất và chi tiết kỹ thuật (đặc biệt về MRV - đo đạc, báo cáo, thẩm định) giữa các lĩnh vực vẫn chưa hoàn thiện, còn chênh lệch giữa nguồn phát thải tập trung (năng lượng, chất thải) và nguồn phát thải phân tán (nông nghiệp).
![]() |
| Việc giảm phát thải khí nhà kính luôn được Việt Nam quan tâm |
Hệ thống pháp luật đã xác định đầy đủ vai trò, nghĩa vụ và lộ trình giảm phát thải CH₄: Luật Bảo vệ Môi trường 2020 quy định rõ CH₄ là khí nhà kính cần kiểm soát; Nghị định 06/2022/NĐ-CP đặt ra lộ trình bắt buộc giảm phát thải cho các cơ sở lớn giai đoạn 2026-2030; Nghị định 119/2025/NĐ-CP là một văn bản pháp quy quan trọng của Việt Nam về thị trường carbon; Quyết định 818/QĐ-TTg ban hành Kế hoạch hành động giảm phát thải mê-tan đến năm 2030, giao nhiệm vụ cụ thể cho từng bộ, ngành.
Mức độ hài hòa giữa các lĩnh vực còn khác biệt rõ. Năng lượng: Dễ áp dụng quy định vì nguồn phát thải tập trung; tuy nhiên, MRV còn phân mảnh giữa Bộ Công Thương và Bộ NN&MT.
Chất thải: Có cơ sở pháp lý tương đối rõ, nhưng chậm triển khai công nghệ thu hồi khí và xử lý tiên tiến, thiếu cơ chế thu hút đầu tư tư nhân.
Nông nghiệp: Là nguồn phát thải CH₄ lớn nhất (khoảng 67%), song khó điều tiết do đặc thù nhỏ lẻ; cần cơ chế khuyến khích và tín chỉ carbon thay vì quy định hành chính.
Khoảng trống trong chính sách
- PV: Theo bà, đâu là những khoảng trống hoặc hạn chế lớn nhất trong hệ thống pháp luật hiện nay về kiểm soát khí mê-tan?
- PGS.TS Phạm Mai Thảo: Hạn chế lớn nhất hiện nay nằm ở thiếu cơ chế điều tiết và tài chính hiệu quả cho lĩnh vực nông nghiệp, nguồn phát thải chiếm gần 67% tổng lượng khí mê-tan của quốc gia. Nghị định 06/2022/NĐ-CP chủ yếu áp dụng với các cơ sở phát thải lớn trong công nghiệp và năng lượng, trong khi nông nghiệp gồm hàng triệu hộ nhỏ lẻ, không thuộc diện bị điều tiết bắt buộc. Do đó, các chính sách hiện hành mới dừng ở mức khuyến khích kỹ thuật (như “Một phải Năm giảm”, ngập khô xen kẽ - AWD) mà thiếu cơ chế tài chính bù đắp đủ mạnh, làm giảm động lực chuyển đổi sang mô hình nông nghiệp carbon thấp.
Thị trường tín chỉ carbon nông nghiệp cũng đang trong giai đoạn hoàn thiện, chưa có hướng dẫn cụ thể về phát hành, xác minh và giao dịch tín chỉ từ các hoạt động giảm mê-tan (như AWD, biogas). Điều này hạn chế khả năng huy động vốn và tạo thu nhập bền vững cho nông dân.
![]() |
| Hội nghị tham vấn Dự thảo “Đề án sản xuất trồng trọt giảm phát thải giai đoạn 2025-2030”, do Bộ Nông nghiệp và Môi trường tổ chức (Ảnh Chu Mạnh Hải) |
Về khung kỹ thuật, hệ thống đo lường, báo cáo và thẩm định (MRV) thiếu thống nhất giữa các bộ ngành (NN&MT, Công Thương), dẫn đến phân mảnh dữ liệu và giảm độ tin cậy trong kiểm kê quốc gia. Sự thiếu hài hòa tiêu chuẩn kỹ thuật, đặc biệt với các nguồn phát thải phân tán như lúa nước hay rò rỉ khí, ảnh hưởng trực tiếp đến tính minh bạch và khả năng tham gia thị trường carbon quốc tế.
Ngoài ra, trong lĩnh vực chất thải, việc thu hút đầu tư tư nhân vào các dự án thu hồi khí bãi rác (LFG) còn hạn chế do thiếu cơ sở hợp đồng minh bạch và cơ chế chia sẻ rủi ro rõ ràng.
- PV: Vậy, theo bà, Việt Nam cần ưu tiên hoàn thiện những nhóm chính sách hoặc văn bản pháp luật nào để tạo hành lang pháp lý đầy đủ cho công tác giảm phát thải khí mê-tan?
- PGS.TS Phạm Mai Thảo: Việt Nam cần ưu tiên hoàn thiện ba nhóm chính sách trọng tâm nhằm tạo động lực và cơ chế giám sát hiệu quả cho mục tiêu giảm phát thải khí mê-tan.
Trong đó, thứ nhất hoàn thiện khung pháp lý và cơ chế tài chính hóa carbon nông nghiệp, nhóm ưu tiên hàng đầu để kiểm soát nguồn phát thải lớn và phân tán nhất (đặc biệt từ canh tác lúa nước). Chúng ta cần sớm ban hành khung pháp lý cho tín chỉ carbon nông nghiệp, quy định quy trình MRV đơn giản, minh bạch và cơ chế chia sẻ lợi ích công bằng giữa nông dân, tổ chức hỗ trợ và nhà đầu tư. Đồng thời, cần tái định hướng chính sách công và ngân sách, tích hợp giảm phát thải mê-tan vào các chương trình nông nghiệp - nông thôn mới, ưu tiên hỗ trợ vốn, thuế và kỹ thuật cho mô hình nông nghiệp carbon thấp.
Thứ hai, hoàn thiện khung kỹ thuật và thể chế MRV liên ngành nhằm đảm bảo tính thống nhất và minh bạch của dữ liệu kiểm kê quốc gia. Các bộ ngành (Nông nghiệp và Môi trường, Công thương) cần phối hợp ban hành thông tư MRV thống nhất, áp dụng công nghệ giám sát tiên tiến như dữ liệu vệ tinh, đồng thời tăng cường cơ chế phối hợp liên ngành dưới sự điều phối của MAE để tránh chồng chéo trong quản lý phát thải.
Thứ ba hoàn thiện khung pháp lý cho đầu tư tư nhân trong xử lý chất thải, đặc biệt là các dự án thu hồi và sử dụng khí mê-tan từ bãi chôn lấp. Chúng ta cần ban hành cơ chế hợp đồng minh bạch, ổn định và chia sẻ rủi ro rõ ràng, cùng với chính sách giá mua điện (FIT) hợp lý cho điện sản xuất từ biogas và LFG, nhằm thu hút đầu tư và mở rộng quy mô công nghệ giảm phát thải.
Trân trọng cảm ơn bà!
Tin liên quan
Cùng chuyên mục
Đọc thêm
Môi trường
"Lời giải xanh" giảm phát thải Mê-tan, hướng tới nền kinh tế tuần hoàn
Môi trường
Biến rác thành tài nguyên, dệt màu xanh cho Nông thôn mới
Môi trường
Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ tiếp tục rét, có nơi rét đậm
Xã hội
Đề xuất dự án thoát lũ hơn 1.900 tỷ đồng phía Tây Nha Trang
Môi trường
Đông Bắc Bộ nhiệt độ thấp nhất 12-15 độ C, có nơi dưới 6 độ C
Môi trường
Bắc Bộ tiếp tục rét, Trung Bộ mưa lớn
Xã hội
Khánh Hòa đầu tư nhà máy điện rác 3.250 tỷ đồng
Môi trường
Ưu tiên nhà thầu áp dụng công nghệ tiên tiến, thân thiện môi trường
Infographic
Hà Nội tăng cường loạt giải pháp cấp bách để giảm ô nhiễm không khí
Môi trường








