Mối nguy khiến doanh nghiệp mong manh như “ngọn đèn trước gió”
Khó khăn tứ bề, doanh nghiệp đề xuất loạt giải pháp cứu nguy |
Có đơn hàng nhưng mong manh
Theo Cục Công nghiệp (Bộ Công thương), mặc dù chịu ảnh hưởng nặng nề bởi dịch bệnh Covid-19, song các ngành xuất khẩu chủ lực của Việt Nam như dệt may, da giày, điện tử… vẫn tiếp nhận nhiều đơn hàng quốc tế mới nhờ sự dịch chuyển chuỗi sản xuất, chuỗi giá trị và sự thay đổi về nhu cầu tiêu dùng của các thị trường lớn.
Điều này thể hiện rõ nét ở việc kim ngạch xuất khẩu của các ngành điện tử, dệt may, da giày trong năm 2020 và 6 tháng đầu năm 2021 vẫn rất tốt trong bối cảnh toàn cầu bị ảnh hưởng bởi đại dịch.
Trong đó, đối với ngành may mặc, sau thời gian dồn nén vì tiêu dùng giảm, cuối năm 2020 và đầu năm 2021, sức mua tăng lên giúp doanh nghiệp dệt may có nhiều đơn hàng hơn. Nhu cầu mua sắm của người tiêu dùng tại các thị trường lớn như Mỹ, EU, Nhật Bản, Hàn Quốc đối với quần áo và giày dép tăng mạnh khi kinh tế được phục hồi do dỡ bỏ dần lệnh phong tỏa.
Thêm vào đó, sự bất ổn chính trị ở một số nước, vùng lãnh thổ đã ảnh hưởng đến năng lực sản xuất dệt may của họ khiến các nhà mua hàng chuyển hướng sang Việt Nam, nhờ vậy doanh nghiệp trong nước có thêm nhiều cơ hội tiếp nhận các đơn hàng xuất khẩu lớn.
Đối với ngành may mặc, các nhãn hàng lớn như Nike, Adidas, New Balance, Decathlon, Uniqlo, GAP, H&M… thường lựa chọn đặt cơ sở sản xuất, hoặc gia công sản xuất tại các quốc gia có ngành dệt may, da giày phát triển như Trung Quốc, Việt Nam, Ấn Độ, Bangladesh, Myanma…
Cùng tùy vào mã hàng, thời điểm giao hàng, điều kiện cụ thể về an ninh, chính trị, kinh tế, xã hội, dịch bệnh, thời tiết, việc tuân thủ trách nhiệm xã hội, trách nhiệm với môi trường… mà các nhãn hàng sẽ quyết định đặt sản xuất, gia công ở các nước khác nhau với tỷ trọng khác nhau.
Ngành may mặc cũng đang đối mặt với nhiều nỗi lo |
Còn với ngành điện tử, do ảnh hưởng của dịch Covid-19 và các quy định về giãn cách xã hội tại nhiều quốc gia đã khiến nhu cầu sử dụng các phương tiện thông tin liên lạc, làm việc online, trực tuyến của người tiêu dùng tại nhiều nơi tăng cao, cùng với đó là sự dịch chuyển chuỗi giá trị của một số hãng điện tử lớn trên thế giới nên các doanh nghiệp trong nước cũng đã tiếp cận được nhiều đơn hàng mới.
Hiện nay, Việt Nam là cứ điểm sản xuất rất quan trọng của hãng Samsung Electronics. Khoảng trên 50% sản phẩm điện thoại và máy tính bảng của Samsung trên toàn cầu được sản xuất tại Việt Nam.
Năm 2020, nhóm hàng điện thoại di động và linh kiện xuất khẩu giảm 1% so với năm 2019 do bị ảnh hưởng của dịch Covid-19, riêng nhóm hàng điện tử, máy tính và linh kiện xuất khẩu tăng 24,4% so với năm 2019.
Tuy nhiên, sang đến 6 tháng đầu năm 2021, nhóm hàng điện thoại di động và linh kiện xuất khẩu tăng 14,1%, và nhóm hàng điện tử, máy tính và linh kiện xuất khẩu tăng 22,8% so với cùng kỳ năm 2020 về trị giá.
Đối mặt với nhiều mối nguy
Ở thời điểm hiện tại, dù cả ngành điện tử, dệt may đều tăng trưởng song thời gian tới, trong bối cảnh dịch Covid-19 diễn biến ngày càng phức tạp, những khó khăn, lo ngại của cộng đồng doanh nghiệp có thể đến từ cả phía cung và cầu.
Về phía cung, khó khăn lớn nhất hiện nay của các doanh nghiệp là việc không bảo đảm được quá trình lưu thông, vận chuyển thông suốt phục vụ sản xuất, kinh doanh và tiêu thụ hàng hóa do các quy định về phòng dịch phức tạp và không thống nhất giữa nhiều địa phương.
Đặc trưng của ngành công nghiệp là tính kết nối sản xuất theo chuỗi không phân biệt địa giới hành chính, do đó, các khó khăn về lưu thông, vận chuyển hàng hóa do yêu cầu phòng dịch sẽ dẫn đến nguy cơ làm đứt gãy chuỗi cung ứng, trong đó đặc biệt là chuỗi cung ứng lao động, ảnh hưởng nghiêm trọng đến đầu vào sản xuất của doanh nghiệp.
Nếu không sớm quay trở lại sản xuất, doanh nghiệp sẽ phải đối mặt với nguy cơ khách hàng quốc tế sẽ dừng, huỷ đơn hàng để chuyển sang nước khác |
Do đó, một số quy định về phòng chống dịch bệnh cần phải được điều chỉnh, sửa đổi để đảm bảo mục tiêu vừa duy trì sản xuất cho doanh nghiệp, vừa bảo đảm sức khỏe, an toàn tính mạng cho người lao động và cộng đồng.
Về phía cầu, dự báo trong thời gian tới, do ảnh hưởng của dịch bệnh và các quy định của nhiều địa phương về giãn cách xã hội, đơn hàng trong nước của nhiều ngành sản xuất như ô tô, cơ khí, thép… sẽ sụt giảm nghiêm trọng.
Đối với các mặt hàng xuất khẩu chủ đạo như điện tử, dệt may và da giày, các doanh nghiệp có thể có thêm các đơn hàng xuất khẩu mới. Tuy nhiên, nếu không sớm có các giải pháp giúp doanh nghiệp khắc phục tình trạng đứt gãy chuỗi cung ứng trong nước, sớm quay trở lại sản xuất, họ sẽ phải đối mặt với nguy cơ khách hàng quốc tế sẽ dừng, huỷ đơn hàng để chuyển sang nước khác và đến khi dịch được kiểm soát, doanh nghiệp khó có thể nối lại các mối quan hệ kinh doanh đã mất.
Theo đánh giá, khi các nền kinh tế lớn của thế giới là Mỹ và EU mở cửa trở lại, thị trường tiêu dùng được phục hồi mạnh mẽ thì nhu cầu tiêu dùng các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam như điện tử, dệt may, da giày, chế biến nông sản, thủy sản… sẽ tăng mạnh trở lại.
Vì thế, việc tận dụng cơ hội này của Việt Nam trong việc giành được các đơn hàng lớn để phục hồi sản xuất trong nước trong bối cảnh dịch bệnh trong thời gian tới là hết sức quan trọng.
Tuy nhiên, với tình hình diễn biến phức tạp của dịch bệnh hiện nay, đặc biệt là ở các tỉnh phía Nam, nhiều doanh nghiệp đã phải cắt giảm công suất tối đa, thậm chí là đóng cửa tạm thời do không đáp ứng được yêu cầu phòng dịch của chính quyền địa phương, đặc biệt là yêu cầu bố trí sản xuất theo phương án “3 tại chỗ”.
Hiện một số doanh nghiệp đang buộc phải chịu lỗ để thực hiện phương án “3 tại chỗ” nhằm đảm bảo tiến độ các đơn hàng đã ký kết, tuy nhiên do sức ép về tài chính, họ sẽ không thể bảo đảm sản xuất trong dài hạn.
Đồng thời, nguy cơ thiếu hụt lao động sau khi phục hồi kinh tế cũng ảnh hưởng rất lớn đến việc khôi phục hoạt động của các doanh nghiệp, từ đó khiến họ sẽ phải đối mặt với nguy cơ khách hàng quốc tế sẽ dừng, huỷ đơn hàng để chuyển sang nước khác.
Theo Cục Công nghiệp, do tính chất gắn kết chặt chẽ, hữu cơ, liên tục của chuỗi sản xuất và chuỗi giá trị các ngành công nghiệp trên thế giới, nếu Việt Nam không thể tận dụng cơ hội từ sự phục hồi kinh tế của các thị trường lớn và đánh mất các đơn hàng cung ứng cho các quốc gia này trong thời gian tới, sẽ tạo điều kiện cho quốc gia khác thay thế Việt Nam trong chuỗi sản xuất toàn cầu.
Trong trường hợp gián đoạn chuỗi giá trị toàn cầu, các nhà mua hàng và sản xuất lớn sẽ tìm kiếm sự bù đắp thiếu hụt chuỗi cung ứng từ quốc gia khác. Việc quay trở lại chuỗi giá trị, chuỗi cung ứng toàn cầu sẽ cực kỳ khó khăn và cần phải có quá trình lâu dài.
Các sản phẩm công nghiệp chế biến, chế tạo chiếm hơn 85% kim ngạch xuất khẩu của cả nước, có tác động lan tỏa đến các ngành dịch vụ như ngân hàng, bảo hiểm, logistics... và đặc biệt là tạo việc làm cho hàng chục triệu lao động trực tiếp cũng như gián tiếp trong các ngành nghề liên quan.
Việc gián đoạn quá trình tham gia chuỗi giá trị toàn cầu do đó sẽ làm tăng nhập siêu, ảnh hưởng đến cán cân thương mại quốc tế của Việt Nam, đồng thời cũng ảnh hưởng nghiêm trọng đến an sinh xã hội và kinh tế vĩ mô Việt Nam trong ngắn hạn cũng như dài hạn.
Do đó, Cục Công nghiệp cho rằng cần sớm có những giải pháp cấp bách nhằm duy trì chuỗi sản xuất trong nước, đặc biệt là trong các ngành xuất khẩu chủ lực hiện nay.