Phiêu diêu trong thế giới tranh của Lê Tuấn Anh
|
Tranh của Lê Tuấn Anh không dành chỗ cho những ai thích tìm kiếm những "giật gân", "tân kì”. Sự tiếp nối hài hòa và trật tự từ truyền thống khiến tranh của anh tưởng như là những bài thơ "dễ đọc", không trúc trắc, có vần điệu; nhưng chính cái đẹp của người đàn bà đã mang “màu thời gian”, cái đẹp của một bài thơ nhuần nhị trong tranh của anh lại có cái sức cuốn hút sâu lắng và ám ảnh kì lạ.
|
|
Tác phẩm của Lê Tuấn Anh
Là một trong không nhiều những họa sĩ Việt có thể “sống được bằng nghề”, lại sở hữu một bộ sưu tập các giải thưởng danh giá trong và ngoài nước, nhưng phải đợi đến khi có thâm niên hơn 30 năm cầm cọ, Lê Tuấn Anh mới làm một triển lãm cá nhân có quy mô đầu tiên khai mạc vào 12/1 tại 29 Hàng Bài – Hà Nội để nhìn lại “những biến đổi và lớn lên không ngừng của một cá tính sáng tạo”.
Bốn chủ đề đã đi qua dặm dài con đường nghệ thuật suốt hơn bao mươi năm của Lê Tuấn Anh gồm: Tâm linh (Phật giáo); đời sống nông thôn (tranh vẽ cổng làng, cổng chùa, cổng nhà, lễ hội); miền núi và biển sẽ có diện mạo đầy đủ trong cuộc triển lãm cá nhân quy mô đầu tiên của người họa sĩ đang ở độ chín của nghề. Sau một giai đoạn đắm đuối với loạt tranh trừu tượng ở thể loại tâm linh, gần đây, Lê Tuấn Anh lại trở về với dòng tranh thuộc đề tài nông thôn và chính dòng tranh này đã tạo nên cái đặc sắc, cái cá tính sáng tạo của Lê Tuấn Anh.
Là giai phố (Lê Tuấn Anh sinh ra và lớn lên ở Hà Nội, lập nghiệp cũng tại Hà Nội) nhưng anh lại nặng lòng với đề tài nông thôn miền núi. Anh bảo, cho dù sống ở đâu thì bất cứ người Việt Nam nào cũng đều có gốc gác nông thôn. Hơn nữa, tuổi thơ anh là những tháng năm đi sơ tán về các vùng quê nên đời sống nông thôn ít nhiều đã tạo nên tính cách của anh. Anh tâm sự, nhiều người hay nói về “hồn dân tộc”, nhưng họ lại không gọi ra được chính xác “hồn dân tộc” là cái gì. Với anh, hồn dân tộc, tinh hoa truyền thống của dân tộc chính là ở cái cổng làng, cồng chùa, cổng nhà, là lễ hội, ở bức tường rêu phong.
Chất liệu mache (papier-mâché) được Lê Tuấn Anh sử dụng độc đáo và rất tình trong những bức tranh về nông thôn Việt. Nhận xét về ngôn ngữ hội họa riêng, về bút pháp đắc sắc của Lê Tuấn Anh, nhà phê bình Quang Việt gọi đó chính là “sự "linh hoạt hóa" bản tính vốn có của sơn dầu, bằng cách kết hợp sơn dầu với điệp, màu bột, giấy dó, qua những vết loang, vết nhăn, vết xước, vết rạn; màu và chất có khi phớt nhẹ như điểm mực, có khi lại đặc quánh, chắc như khảm, phô diễn được cả hình, cả nét, cả màu trong một bút pháp nửa thực nửa hư”. Nhà phê bình khẳng định: “Trong nền hội họa Việt Nam đương đại, một hướng đi, một hướng tìm tòi về chất liệu như thế, thật đáng để trân trọng và nghiên cứu”. Với bút pháp riêng này, Lê Tuấn Anh đã đưa được những giây phút thăng hoa của người nghệ sĩ dồn tụ tất cả vào trong nét vẽ. Đứng trước những bức tranh đồng quê của anh, hồn người như được lắng lại với những dấu vết thời gian, với những mảng vỡ thời gian in hằn trên cảnh và người.
Ở mảng tranh đồng quê của anh, người ta thấy lấp ló bóng dáng người đàn bà đẹp, cái đẹp đắm thắm đã được nhuốm gội nước thời gian. Thế nên, tranh của anh không dành chỗ cho những ai thích tìm kiếm những "giật gân", "tân kỳ”. Sự tiếp nối hài hòa và trật tự từ truyền thống khiến tranh của anh tưởng như là những bài thơ "dễ đọc", không trúc trắc, có vần điệu; nhưng chính cái đẹp của người đàn bà đã mang “màu thời gian”, cái đẹp của một bài thơ nhuần nhị trong tranh của anh lại có cái sức cuốn hút sâu lắng và ám ảnh đến độ dù có quên đi rồi người ta vẫn còn nghe vọng mãi tiếng ngân nga nơi sâu thẳm hồn mình.
Trong hội họa, có những dòng tranh “tân kỳ” ấy, “bắt mắt” ấy, nhưng người ta chỉ có thể xem được một lần, không thể đón nhận thêm được ở lần gặp gỡ thứ hai, nhưng tranh của Lê Tuấn Anh lại thuộc loại có thể xem được nhiều lần, có thể ngắm mãi không thấy “ngợp”, càng xem càng thấy “mở”, thấy hay. Tranh của Lê Tuấn Anh là thế, chẳng cần “lên gân” hay “tỏ ra nguy hiểm” như cách mà nhiều họa sĩ trẻ đang “vật vã” thể hiện. Với anh, nếu người xem có thể “tìm thấy chất thơ, xem tranh để dịu lòng mình” thì đã đủ “ấm lòng” cho người nghệ sĩ tiếp tục lặng lẽ và miệt mài với con đường sáng tạo của mình.
Tâm sự về “quan điểm sáng tác” anh bảo, điều anh “tối kị” nhất ấy là việc họa sĩ chép lại tranh của chính mình. Với anh, điều đó chẳng khác nào nghệ sĩ tự chép lại chính tâm hồn mình. Người nghệ sĩ chân chính không bao giờ tự sao chép lại tâm hồn mình. Thế nên, mấy chục năm cầm cọ và “sống được bằng nghề”, anh chỉ vẽ những gì mình thích và không bao giờ vẽ bức tranh thứ hai giống bức tranh thứ nhất. “Điều đáng sợ nhất đối với một người làm công việc sáng tạo là sống bằng cái bóng của người khác”.
Là một trong số không nhiều họa sĩ Việt bán được tranh là sống được bằng nghề, Lê Tuấn Anh vui mừng cho biết tin vui trong thị trường mỹ thuật Việt Nam khi 5-7 năm trở lại đây người Việt chơi tranh và quan tâm đến hội họa rất nhiều. “Đây là một tín hiệu rất vui bởi một nền hội họa muốn phát triển được thì trước tiên nó cần phải nhận được sự quan tâm và yêu thương từ chính công chúng trong nước” – họa sĩ Lê Tuấn Anh nói.
Họa sĩ Lê Tuấn Anh sinh năm 1962, tốt nghiệp Trường Đại học Mỹ thuật Hà Nội 1984. Anh đã tham gia nhiều triển lãm nhóm và triển lãm cá nhân ở trong nước và quốc tế vàgiành được nhiều giải thưởng như: Huy chương đồng Triển lãm mĩ thuật toàn quốc năm 1995, Huy chương bạc Triển lãm mỹ thuật toàn quốc năm 2000; Giải B khu vực I toàn quốc năm 2000; Giải khuyến khích khu vực I toàn quốc năm 2001; Giải khuyến khích Triển lãm công nghiệp năm 2001… |
Hoàng Hương
Tin liên quan
Cùng chuyên mục
Đọc thêm

Báo chí phải là ngọn cờ dẫn dắt, truyền cảm hứng sáng tạo

Báo chí đồng hành doanh nghiệp xây dựng sức mạnh mềm quốc gia

Khởi công Dự án tu bổ, tôn tạo chùa Phúc Lâm cổ

Không ngừng đổi mới trong kỷ nguyên báo chí số

Bản hùng ca nghệ thuật về Báo chí cách mạng Việt Nam

Nâng tầm nền báo chí cách mạng chuyên nghiệp, nhân văn, hiện đại

Phát động sáng tác nghệ thuật về hình tượng công an Thủ đô

Cuốn sách đầy chiêm nghiệm của nhà báo Hồ Quang Lợi

Người chọn nghề, nghề chọn người và hành trình dấn thân của nhà báo Tô Đình Tuân
