Tết Mậu Thân 1968: “Dáng đứng Việt Nam” còn sống mãi trong lòng nhiều thế hệ
![]() |
“Anh tên gì hỡi anh yêu quý!”
“Anh ngã xuống đường băng Tân Sơn Nhứt
Nhưng Anh gượng đứng lên tì súng trên xác trực thăng
Và Anh chết trong khi đang đứng bắn
Máu Anh phun theo lửa đạn cầu vồng.
Chợt thấy anh, giặc hốt hoảng xin hàng
Có thằng sụp xuống chân Anh tránh đạn
Bởi Anh chết rồi nhưng lòng dũng cảm
Vẫn đứng đàng hoàng nổ súng tiến công”
(trích bài thơ “Dáng đứng Việt Nam” của Lê Anh Xuân)
Bài thơ “Dáng đứng Việt Nam” là một trong những tác phẩm cuối cùng của nhà thơ Lê Anh Xuân. Trong di sản của mình, có lẽ đây là tác phẩm đã làm nên tên tuổi Lê Anh Xuân trở thành một cây đại thụ trong làng thơ ca Việt Nam cận hiện đại. “Dáng đứng Việt Nam” cũng đã trở thành hình tượng người anh hùng, đại diện cho chí khí chiến đấu bất khuất của bộ đội cụ Hồ cho đến ngày hôm nay.
Bài thơ “Dáng đứng Việt Nam” đã được đưa vào giảng dạy trong nhà trường phổ thông, rất nhiều thế hệ đã yêu và say mê những câu từ chân chất mà đầy hình tượng bi tráng của bài thơ, đặc biệt là với người lính. Thế nhưng, ít ai biết hình tượng ấy có nguyên mẫu từ đâu, đến chính nhà thơ Lê Anh Xuân khi viết bài thơ này cũng không biết người chiến sĩ bất khuất, kiên cường ấy là ai. Bởi thế, nhà thơ mới viết:
“Anh tên gì hỡi Anh yêu quý
Anh vẫn đứng lặng im như bức thành đồng
Như đôi dép dưới chân Anh giẫm lên bao xác Mỹ
Mà vẫn một màu bình dị, sáng trong
Không một tấm hình, không một dòng địa chỉ
Anh chẳng để lại gì cho riêng Anh trước lúc lên đường
Chỉ để lại cái dáng-đứng-Việt-Nam tạc vào thế kỷ”
(trích bài thơ “Dáng đứng Việt Nam” của Lê Anh Xuân)
Cựu chiến binh Vũ Chí Thành - nguyên Trung đội phó Trung đội đại liên - Tiểu đoàn 16, tiết lộ: “Nguyên mẫu của người chiến sĩ trong bài thơ này là anh Nguyễn Công Mẹo, nguyên quán ở thôn Đồng Vinh 1, xã Đồng Tiến, huyện Triệu Sơn, tỉnh Thanh Hóa và 1 chiến sĩ nữa mà anh em chứng kiến không biết tên”.
Theo ông Thành, sau trận đánh vào Tân Sơn Nhất, 2 đại đội đánh sâu vào sân bay chỉ còn vài người còn sống và bị thương nặng. Sau khi về đến bộ chỉ huy có kể lại tình hình chiến đấu cho chỉ huy, trong đó có nhà báo - nhà thơ Hoài Vũ đang theo đoàn quân chiến dịch.
![]() |
Trận đánh vào sân bay Tân Sơn Nhất Tết Mậu Thân đã đi vào lịch sử quân đội nhân dân Việt Nam như 1 trong những trận đánh ác liệt nhất
Dựa vào lời kể của các chiến sĩ vừa về từ chiến địa, nhà báo - nhà thơ Hoài Vũ viết bài ký “Thư Tân Sơn Nhứt” vào ngày 2/2/1968 với nhiều câu chuyện chiến đấu quả cảm của các đơn vị tham chiến như Tiểu đoàn 16, Tiểu đoàn 267, Tiểu đoàn 12 đặc công, Biệt động thành Gò Môn...
Trong bài ký này có đoạn miêu tả về 2 người chiến sĩ kiên cường, đã chết nhưng vẫn tì thân trên xác xe thiết giáp M41 đã bị bắn cháy. 2 anh đã chết nhưng tay vẫn ôm chặt súng, thân tì trên xác xe nên không ngã xuống.
Sau đó, từ cảm hứng này, nhà thơ Lê Anh Xuân đã viết thành bài thơ về hình tượng 2 người chiến sĩ trên vào tháng 3/1968. Ban đầu, bài thơ có tên là “Anh giải phóng quân” được lưu truyền rộng rãi trong anh em bộ đội và nhân dân Long An, sau đó mới được đổi tên thành “Dáng đứng Việt Nam” khi in thành sách. Chỉ chưa đầy 2 tháng sau khi viết bài thơ “Dáng đứng Việt Nam”, ngày 5/6/1968, nhà thơ Lê Anh Xuân hy sinh tại chiến trường Cần Đước, Long An.
Tin liên quan
Cùng chuyên mục
Đọc thêm

Đại biểu Quốc hội đề nghị tăng mạnh thuế thuốc lá

Đề nghị tăng thuế tiêu thụ đặc biệt với dịch vụ kinh doanh golf

Lễ thượng cờ Tổ quốc nhân kỷ niệm 64 năm Ngày Bác Hồ ra thăm đảo Cô Tô

Đoàn công tác Bộ Chính trị làm việc với Ban Thường vụ Tỉnh ủy Lào Cai và Yên Bái

Cuộc cách mạng lớn trong hoạt động thanh tra

Làm rõ căn cứ tăng số Thẩm phán TAND tối cao lên 27 người

Mục tiêu của cải cách tư pháp là gần dân, bảo vệ dân

Ngày 9/5, Quốc hội thảo luận sửa Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt

Băn khoăn việc áp dụng chung một trình tự trong hoạt động thanh tra
