Triển khai kế hoạch hành động giảm phát thải khí mê-tan trong công nghiệp
- PV: Thưa bà, theo Kế hoạch hành động giảm phát thải khí mê-tan đến năm 2030 của Chính phủ, trong các lĩnh vực của ngành công nghiệp cần thực hiện các biện pháp giảm phát thải khí mê-tan được nhấn mạnh hai lĩnh vực là khai thác, chế biến dầu khí, khai thác than. Bà có thể phân tích cơ sở và tầm quan trọng của việc đưa các lĩnh vực này của công nghiệp vào chiến lược giảm mê-tan quốc gia?
- TS Phạm Thị Thanh Thúy, ĐH Sư phạm Hà Nội: Theo Kế hoạch hành động giảm phát thải khí mê-tan được Thủ tướng phê duyệt (Quyết định 942/QĐ-TTg), Việt Nam đặt mục tiêu giảm ít nhất 30% tổng phát thải khí mê-tan vào năm 2030 so với mức năm 2020. Ngoài lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi của nông nghiệp, một số lĩnh vực của công nghiệp nói trên cũng đóng góp vai trò quan trọng. Trong đó, công nghiệp than rất đặc biệt vì khi khai thác mỏ, khí mê-tan thoát ra từ hầm lò, vừa gây nguy hiểm an toàn lao động, vừa phát thải lớn nếu không thu hồi.
![]() |
| TS Phạm Thị Thanh Thúy, ĐH Sư phạm Hà Nội |
Trong khi đó, ngành dầu khí cũng có nguy cơ rò rỉ mê-tan trong khai thác, vận chuyển, lưu trữ là vấn đề lớn, gây thất thoát tài nguyên khí quý mà còn làm trầm trọng thêm biến đổi khí hậu. Việc kiểm soát rò rỉ này không chỉ mang lại lợi ích bền vững cho môi trường mà còn giúp doanh nghiệp tận dụng được nguồn khí thường bị bỏ phí.
- PV: Vậy bà đánh giá thế nào về các nhóm giải pháp mà Kế hoạch hành động nêu ra dành riêng cho các lĩnh vực công nghiệp nói trên?
- TS Phạm Thị Thanh Thúy, ĐH Sư phạm Hà Nội: Kế hoạch hành động giảm phát thải khí mê-tan đã vạch rõ các nhóm giải pháp rất chiến lược cho công nghiệp như: Xây dựng và ban hành cơ chế, chính sách khuyến khích triển khai các hoạt động thu gom khí đồng hành từ các mỏ dầu trong quá trình khai thác, đặc biệt đối với các mỏ nhỏ, mỏ cận biên;
Đầu tư lắp đặt các thiết bị phát hiện sự cố và thực hiện các biện pháp phòng ngừa, khắc phục rò rỉ trong quá trình thăm dò, khai thác dầu khí; lắp đặt các thiết bị thu hồi khí đồng hành, khí mê-tan trong xử lý khí và lọc hóa dầu; nâng cấp và thay thế thiết bị cũ, lạc hậu trong khai thác, cung cấp, chế biến dầu khí để giảm phát thải khí mê-tan;
Nghiên cứu và triển khai khoan tháo khí, thu hồi khí mê-tan trước và trong khai thác than hầm lò tại các vùng mỏ xây dựng mới, vùng mỏ cải tạo mở rộng, áp dụng thí điểm tại các vùng than thuộc tỉnh Quảng Ninh để đánh giá và nhân rộng trên phạm vi toàn quốc;
Đầu tư lắp đặt và vận hành hệ thống tự động giám sát, quản lý điện năng, thiết bị tiết kiệm điện trong dây chuyền công nghệ khai thác, chế biến than.
![]() |
| Ước tính đến năm 2030, ngành than có thể giảm hơn 2.836 GgCO₂ tđ khí mê-tan |
Ngoài ra, kế hoạch còn nhấn mạnh đến giải pháp tiết kiệm và sử dụng hiệu quả năng lượng, sử dụng năng lượng sạch, năng lượng tái tạo nhằm giảm phát thải khí nhà kính, trong đó có khí mê-tan, thông qua thực hiện tối ưu hóa sử dụng năng lượng trong các quá trình công nghiệp, dịch vụ, giao thông vận tải và các hoạt động khác có sử dụng năng lượng; cải tạo, nâng cấp, thay thế thiết bị, công nghệ, phương tiện lạc hậu sử dụng nhiều năng lượng.
- PV: Việc thực hiện các giải pháp trên chắc chắn đòi hỏi nguồn lực đáng kể và sự phối hợp giữa nhiều bên. Theo bà, những thách thức lớn nhất khi triển khai Kế hoạch này là gì và làm cách nào để vượt qua chúng?
- TS Phạm Thị Thanh Thúy, ĐH Sư phạm Hà Nội: Thách thức là rất đa chiều. Một là chi phí đầu tư công nghệ cao: Các hệ thống giám sát rò rỉ khí mê-tan, thiết bị thu hồi khí, các trạm đo lường đều đòi hỏi vốn lớn, và nhiều doanh nghiệp than hoặc dầu khí quy mô nhỏ khó tự bỏ vốn.
Hai là năng lực kỹ thuật và nhân lực: Không phải công ty nào cũng có đội ngũ chuyên môn để vận hành công nghệ thu giữ metan, phân tích dữ liệu rò rỉ.
Ba là cần hoàn thiện khung pháp lý và cơ chế. Nhà nước cần hỗ trợ các doanh nghiệp về tài chính (vay ưu đãi, tín dụng xanh), tăng cường đào tạo kỹ sư, chuyên gia công nghiệp về công nghệ khí mê-tan và đẩy nhanh việc xây dựng tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật mê-tan để doanh nghiệp dễ tiếp cận công nghệ.
- PV: Bà có kiến nghị gì dành cho các cơ quan quản lý, doanh nghiệp công nghiệp và cộng đồng quốc tế để đảm bảo rằng Kế hoạch hành động giảm mê-tan trong công nghiệp được triển khai hiệu quả và bền vững?
- TS Phạm Thị Thanh Thúy, ĐH Sư phạm Hà Nội: Tôi có một số kiến nghị chiến lược. Đầu tiên, cơ quan quản lý như Bộ Công thương cần phối hợp chặt chẽ để giám sát tiến độ thực hiện Kế hoạch hành động giảm phát thải khí mê-tan đến năm 2030 , đồng thời đánh giá định kỳ hiệu quả giải pháp, tổng hợp các kết quả đo đạc thực tế và điều chỉnh chính sách khi cần.
Thứ hai, doanh nghiệp công nghiệp, đặc biệt các công ty khai thác than, dầu khí, nên chủ động tham gia các chương trình giảm phát thải bằng cách đầu tư vào công nghệ thu hồi khí, đào tạo nhân lực và thiết lập hệ thống báo cáo đo lường phát thải; việc này không chỉ giảm khí nhà kính mà còn tiết kiệm tài nguyên thất thoát.
Thứ ba, các tổ chức quốc tế, các nhà tài trợ nên tiếp tục hỗ trợ Việt Nam qua các quỹ khí hậu, quỹ “xanh”, để doanh nghiệp trong nước có thể tiếp cận nguồn vốn sạch, công nghệ tiên tiến.
Cuối cùng, đẩy mạnh truyền thông và nâng cao nhận thức rất quan trọng: việc lan tỏa tầm quan trọng của việc giảm mê-tan trong công nghiệp vì lợi ích chống biến đổi khí hậu và lợi ích kinh tế sẽ tạo áp lực tích cực cho toàn ngành để chuyển đổi theo hướng bền vững.
PV: Xin trân trọng cảm ơn bà !
Tin liên quan
Cùng chuyên mục
Đọc thêm
Xã hội
Gia Lai: Kịp thời cứu hộ 11 người dân bị nước lũ cô lập
Môi trường
Tập trung ứng phó với lũ trên sông Ba ở Đắk Lắk và sông Kôn ở Gia Lai
Môi trường
Cuộc chiến giảm phát thải khí mê-tan nhìn từ khu vực
Môi trường
Không khí lạnh tăng cường, Bắc Bộ rét đậm
Môi trường
Đà Nẵng yêu cầu 4 hồ thủy điện hạ thấp mực nước đón lũ
Môi trường
Rà soát toàn bộ công cụ pháp lý và chế tài xử lý vi phạm hành chính về khai thác IUU
Môi trường
Lũ trên sông Vu Gia - Thu Bồn đang xuống, mưa vẫn tiếp diễn
Môi trường
Lâm Đồng chỉ đạo quyết liệt ứng phó với mưa lũ
Môi trường
Không khí lạnh tràn về, miền Bắc rét sâu
Môi trường




