Dẻo thơm bánh trái Tết xưa
NTK Thạch Linh “vẽ” cả vườn hoa xuân với BST áo dài “Mùa Tết” |
Bọn trẻ, cứ thế chạy chơi huỳnh huỵch đánh bóng bay, xem hội hay nhởn nháo ở đâu về, chưa đến bữa, xin mời cứ tự dưng bóc bánh mà ăn. Ăn no căng bụng lại đi chơi, đến bữa chẳng cần gọi về cũng được.
Trẻ con háo hức học gói bánh chưng ngày Tết (Ảnh minh họa) |
Ấy thế, bánh Tết ngày xưa giúp trẻ con cứ gọi là no lặc lè, no dồn góp trong ít nhất 3 ngày Tết béo nhờn mép.
Bánh chưng
Bánh chưng là bánh phổ thông nhất. Thời điểm vớt bánh bao giờ cũng như một thời khắc quan trọng mang đến niềm vui rất háo hức. Trẻ con đương nhiên phải tránh xa chả bị bỏng. Chỉ người lớn mới được thò tay vào nhấc từng xâu lạt lủng lẳng bánh bốc khói nghi ngút ra. Bao giờ cũng vậy, cứ phải có mấy bác hàng xóm chạy sang xem. Người lớn ríu ran hỏi nhau xem có bị phèo nhiều không, đun bao nhiêu tiếng… Cứ thế cuộc tổng kết rút kinh nghiệm còn kéo dài mãi khiến bọn trẻ con vô cùng sốt ruột.
Rồi đến màn yêu thích nhất. Những chiếc bánh chưng con gói riêng cho lũ trẻ sẽ được bóc ra trước. Bóc của đứa nào cũng là cả một vấn đề vì đứa bị bóc trước sẽ đồng nghĩa với việc được ăn trước nhưng lại phải chia bánh cho cả nhà và chẳng còn bánh để vênh mặt lên với đứa khác, thuê đứa khác rửa bát nếu không muốn bẩn chân tay hoặc bận đi chơi.
Bánh gai
Đầu năm theo quan niệm dân gian mọi người đều thích đỏ. Riêng loài bánh gai đen xì vẫn được đặt trang trọng trên bàn thờ, được cắt ra làm món bánh tráng miệng mời nhau và quan trọng là ngày Tết kiểu gì cũng phải có dăm chục cái bánh gai cho trẻ ăn đã miệng.
Có lẽ bởi nguyên liệu làm bánh quá quen thuộc với người dân đồng bằng Bắc Bộ ven sông Hồng quê tôi từ mấy ngàn năm nay. Tôi chẳng biết cây gai để tước sợi dệt vải thế nào, riêng cây gai để làm bánh gai thì làm bạn với tôi suốt thời thơ bé.
Bởi nhà nào cũng có hàng rào gai. Gọi là cây gai nhưng thực chất chả có cái gai nào chìa ra để châm chọc mọi người. Loài gai hiền hòa sẽ được cắt tỉa bằng bặn như một bức tường xanh mướt quanh năm. Bà tôi hay mang lá gai khô ra thái nhỏ trước khi làm bánh.
Không như bánh chưng được háo hức chờ mong, bánh gai là thứ thực phẩm ăn kèm. Bánh làm có thể từ cận Tết, đặt lên thắp hương ông bà xong, số còn lại tùy nghi.
Trong kí ức của tôi, bánh gai chỉ thực sự được nhớ đến ấy là khi thịt thà nem chả đã hết. Đó cũng là lúc lễ tiễn ông bà đã xong, bàn thờ đã dọn, những hột mứt cuối cùng cũng đã chui vào bụng từ bao giờ. Chẳng còn gì có thể ăn được nữa chúng tôi mới nhớ đến bánh gai.
Khi ấy, thèm ăn quá chỉ có cách dúi vội ngay vào bếp lửa đang vừa đun vừa sưởi dưới cái rét tháng hai rét đài rét lộc. Lớp vỏ bên ngoài cháy xém gần hết cũng là lúc bánh đã mềm ra đôi chút. Bới vội vàng ra, thổi phù phù như khoai nướng, cắt bỏ phần chảy nhão và dính lem nhem tro lá chuối cháy, cứ thế là ăn. Ăn cả cái vị bùi bùi bồn bột của lá gai khô, của bột nếp rắn vì “lại gạo”. Ăn cả phần nhân đỗ xanh trộn mật mía cứng lại đã lật sật bên trong. Ăn cả mùi khen khét oi khói sộc lên tận mũi.
Khó có thể nói là ngon. Ấy thế mà nhớ đến tận bây giờ. Nhớ hơn cả những loại bánh thơm ngon khác.
Bánh chè lam
Chè lam là thứ bánh cũng không thể thiếu trong ngày Tết của quê tôi.
Thấy bà tôi bảo làm chè lam vất vả lắm, nào thì phải quật bột phải giã phải nhồi gì đó. Tôi chẳng quan tâm, chỉ biết miếng chè lam bấy giờ bằng ngón tay, cong queo y hệt như miếng khoai khô, nhai thì cũng ngon đấy nhưng quá mỏi răng so với đứa trẻ 4, 5 tuổi nên chả tha thiết mấy.
Sau này lớn lên tôi mới biết, chè lam quê tôi làm… kém ngon nhất trong tất cả những vùng làm chè lam. Nhất là những năm gần đây khi chẳng ai dùng mật mía nữa, tất cả đều làm bằng đường trắng. Miếng chè lam càng trắng bệch, cộng với màu bột phủ trắng tinh, trông thật kém cảm tình.
Bao nhiêu năm rồi, nhưng chè lam làng tôi vẫn vậy. Nhờ thế, nó có hương và vị riêng mà có lẽ nếu nó quá ngon, quá ngọt, quá bùi thì tôi lại chẳng thể nào nhớ lâu như vậy. Cái sự giản dị chân chất thật thà vị bột nếp ấy, cái tấm chân tình thơm thảo gặp người làng cuối năm về thắp hương trong nhà thờ họ hoặc sáng mồng Một, mồng Hai về chúc Tết là kiểu gì cũng túm lại bằng được để cho bằng được ấy thì sự đổi thay nào sánh bằng cho được.
Vì thế, năm nào thấy bố tôi đi lễ về quê lên mà cầm bọc đầy bọc vơi là tôi mừng lắm. Vì thể nào bố cũng kể ông ấy bà nọ, cô này bác kia vẫn hỏi tên từng đứa chúng tôi giờ đã làm gì, có mấy con rồi. Dù đi khỏi làng mấy chục năm thì người làng vẫn chưa bao giờ quên chúng tôi.
Cũng như tôi, không bao giờ quên được vị bánh chè lam quê mình.
Miếng bánh chè lam cứng quèo, bằng cái cách rất riêng của mình đã nối chúng tôi với quê hương vậy đấy.
Bánh tro
Trong kí ức của tôi sao mà lại có loại bánh vô duyên đến thế. Nó vừa chả có nhân lại oặt oẹo dặt dẹo. Hơn thế nữa lại cầm rất ướt tay, ăn lại kích rích phải chấm vì nhạt toẹt lại có khi hơi nồng vị vôi.
Sau này lớn lên tôi mới biết, thời ngày xưa không có tủ lạnh, các cụ luôn có cách để sáng tạo ra những món ăn để được vài ngày. Chứ nếu mà để rồi hỏng thì quá lãng phí. Gạo sẵn nhà làm ra nhưng vứt đi tí nào là phải tội với giời với đất tí nấy. Hình như những loại tro trộn vào làm bánh kia cũng là những chất bảo quản hết sức tự nhiên, vừa làm nên hương vị riêng của bánh vừa khiến bánh để lâu mới hỏng. Ngẫm ra, cách tiết kiệm của ông bà mình ngày xưa mới thật là chí lí.
Chục năm trở lại đây, bánh tro bỗng vụt sáng trở lại. Ấy là khi người ta đã quá no đủ, quá ngấy những thứ mỡ màng. Người ta cần ăn món gì đó thanh tịnh, mát ruột, có lợi cho tiêu hóa. Bánh tro đáp ứng đủ mọi thứ đó. Bánh chay tịnh hoàn toàn. Bánh không dính một tí mỡ nào, ăn vào không đầy bụng, những thứ thảo dược đốt thành tro kia lại là thứ men tiêu hóa ẩn bên trong khiến bao thịt thà rực người ngấy ngộn của Tết nhất như được trung hòa, giảm tải cho cái bụng.
Bây giờ người ta mới hiểu hết cái ý nhị của người xưa khi sáng chế và duy trì loại bánh này bao năm nay. Các bà các cô đề cao việc ăn uống như thực dưỡng, giảm cân, giữ eo, thanh lọc cơ thể, tìm kiếm thực phẩm an toàn cho sức khỏe thì thích bánh tro ra mặt. Cái giản dị thanh tao của bánh tro cũng chính là vóc dáng mà các chị muốn giữ nên tích cực ăn nó hơn.
Cách ăn của các cụ ngày xưa là chấm khẽ miếng bánh vào bát mật thôi, để miếng bánh một phần tiếp xúc với mật, một phần không. Khi cho vào miệng, ta vẫn cảm nhận được cái ngon của mật nhưng phần không được chấm vẫn rõ vị bánh trong lưỡi. Để rồi hai vị đó lại hòa quyện với nhau khi được nhai lẫn. Kết quả mát ruột, nhẹ bụng, dễ tiêu hóa, thảnh thơi, không quá tải.
Đó mới là cách ăn thực dưỡng, ăn kết hợp, ăn khoa học mà người xưa đã gửi gắm vào món bánh truyền thống này. Vì thế, tôi đã hiểu tại sao bánh tro luôn có mặt trong ngày Tết ngày xưa. Nó là món ăn tổng kết, để tống tiễn đi cái dư thừa quá tải của “no ba ngày Tết”, để cái dạ dày chuẩn bị quay về nhịp làm việc hàng ngày, chậm rãi, bình thản, vừa đủ để khỏe mạnh quanh năm.
Khép lại những lo toan, mở ra nhiều hy vọng |
Long Nón Lá trở lại đường đua V-Pop cùng MV Tết đậm chất miền Tây |
Điểm tô ngôi nhà, đón mùa xuân mới |