Làng Chuông bình dị và mộc mạc với nghề làm nón...
Hà Nội đặt lộ trình khắc phục triệt để tình trạng ô nhiễm môi trường làng nghề |
Hơn 300 tuổi đời
Là một làng nghề nổi tiếng cả nước với truyền thống làm nón lâu đời thông qua sản phẩm nón lá, người dân làng Chuông sống chủ yếu bằng nghề làm nón lá. Không ai trong làng biết chiếc nón xuất hiện từ khi nào nhưng trong ca dao xưa đã có câu “Nón Chuông, khua lụa, quai thao làng Đơ”.
Theo lời những cụ bô lão trong làng thì từ thế kỉ thứ 8 thì làng đã bắt đầu sản xuất nón. Thuở đó, làng Chuông có tên gọi là Trang Thì Trung, chuyên làm các loại nón cho hầu hết mọi tầng lớp khác nhau trong xã hội.
Vẻ đẹp của nón làng Chuông |
Tọa lạc ở xã Phương Trung, làng Chuông cách trung tâm huyện Thanh Oai 3km, cách trung tâm Hà Nội 30km. Xưa kia, làng Chuông sản xuất nhiều loại nón, dùng cho nhiều tầng lớp như nón ba tầm cho các cô gái, nón nhô, nón long, nón dấu, nón chóp cho các chàng trai và những người đàn ông sang trọng.
Trước thế kỉ XX, những sản phẩm nón lá truyền thống của làng Chuông là nón ba vòng. Đấy là loại nón gần giống nón quai thao nhưng có ba vòng đấu, có thành tương đối nông. Nón có kích thuớc to và dành cho người nông dân làm đồng nên không được khâu kỹ. Nón thứ hai là nón thúng (quai thao) có vành rất rộng, hai bên buộc thao dành cho các cụ già đội đi chùa.
Những chiếc nón được sản xuất tại làng nghề hơn 300 năm |
Trong thời kỳ phát triển, làng Chuông là nơi cung cấp nhiều loại nón truyền thống như nón quai thao, nón lá già ghép sống. Trong đó, quai thao sử dụng để người già đội đi chùa chiền. Còn nón lá già ghép sống phục vụ những người phụ nữ làm công việc đồng áng.
Hàng trăm năm đi qua, nghề đan nón lá tại làng Chuông ngày một thịnh vượng. Nghề đan nón đã truyền qua nhiều thế hệ và là một trong những chiếc nôi sản xuất nón lá nổi tiếng nhất Hà thành. Hiện tại, có hơn 4.000 hộ dân ở làng Chuông đan nón lá đem đến những sản phẩm giá rẻ, mẫu mã phong phú cho khách hàng trong nước và quốc tế.
Nghệ nhân Tạ Thu Hương giới thiệu sản phẩm của mình tới du khách |
Những năm gần đây, trước sự thay đổi của nền kinh tế thị trường, sau một thời gian gặp khó khăn, chịu sức ép từ các mặt hàng mũ vải, mũ công nghiệp hay thị hiếu người tiêu dùng thay đổi, gây không ít khó khăn tới thị trường tiêu thị nón lá truyền thống của làng Chuông. Tuy nhiên điều đáng mừng, sau khoảng thời gian khó khăn, người dân làng Chuông, nhất là thế hệ trẻ đã năng động, sáng tạo phát triển đa dạng nhiều mẫu mã sản phẩm đáp ứng nhu cầu thị trường.
Sợi dây gắn kết thế hệ
Bạn đã bao giờ chứng kiến các cụ 80 - 90 tuổi ngồi xâu kim khâu nón chưa? Còn ở nơi đây dường như mọi người đã quá quen thuộc với điều đó. Chiếc nón như gắn liền với cuộc sống của người dân. Họ đội che mưa, che nắng. Họ khâu nón để mưu sinh, đưa chiếc nón vào những điệu múa. Họ coi nón như một món quà tặng những người đi xa để mỗi khi nhìn thấy hình ảnh chiếc nón lại gợi lên những hình ảnh quê hương...
Người làng Chuông đan nón |
Với ưu điểm che được cả mưa lẫn nắng, làm cho người đội cảm thấy thoáng mát, dễ chịu, những chiếc nón Chuông luôn cứng cáp và mang nhiều vẻ đẹp nên được rất nhiều người ưa chuộng...
Từ các cụ già, trẻ nhỏ, các cô bác trung tuổi đều gắn liền với những chiếc nón, để tạo ra những chiếc nón đẹp và chất lượng đến khắp mọi miền Tổ quốc và xuất khẩu sang nước ngoài...
Chiếc nón còn là sợi dây gắn kết mỗi con người. Mỗi ngày không phải làm ruộng, mọi người lại tụ thành một hội, cùng nhau khâu nón và chuyện trò rôm rả bên nhau...
Về với làng Chuông, bạn được trực tiếp chiêm ngưỡng quy trình sản xuất chiếc nón lá đó là một nghề truyền thống chứ không có tính chất kinh doanh nên người dân không ai giấu nghiệp. Nguyên liệu chính để làm cái nón lá là lá cọ tươi nhập từ một số tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, còn chỉ và khung nón đan bằng nan tre có ở địa phương.
Để hình thành chiếc nón phải trải qua nhiều công đoạn khác nhau |
Lá cọ tươi khá nặng cho nên người thợ cần phơi khoảng 3 nắng to làm nước bay hơi thì mới bắt tay vào sản xuất. Bước kế tiếp là xử lý lá mà dân gian gọi là quay lá cho lá khô và mềm hơn nữa. Sau nữa, phải hong khô lá và đem đi sấy lần cuối cùng mới kết thúc việc xử lý lá. Lúc này, lá cọ non sẽ chuyển đổi từ màu xanh thành màu vàng.
Để tạo ra nón đẹp trước hết cần có khung vững chắc. Khung chủ yếu được đan bởi nan nứa và vật liệu này có nhiều dọc hai bờ đê sông Đáy. Người thợ cần quấn đủ 16 vành trong xếp tầng từ trên xuống dưới theo một kích thước nhất định. Các bước tiếp theo là khâu lá vào khung và đan nhôi nón. Cái tài của người thợ làng Chuông là các mối kết nối dây đan đều giấu kín bằng từng đường chỉ tinh tế.
Nón Chuông mang nhiều vẻ đẹp đặc trưng của làng quê Việt |
Sợi dây đan theo các đường kim với 16 lớp vòng thì chiếc nón mới thành hình. Khi chiếc nón đã đan xong, người ta hơ với hơi diêm để làm màu nón trở nên trắng và giữ nón không ẩm mốc. Hoặc nghệ nhân có thể quét dầu bên ngoài để nón sáng, bóng và đều màu.
Trong khi làm nón, các cô gái làng Chuông trang trí thêm bằng việc dán vào thân nón những họa tiết hoa bằng giấy đủ màu. Tinh tế hơn là họ dùng chỉ màu may chéo ở hai điểm đối diện trong lòng nón để sau đó có thể gắn quai nón bằng những dải lụa mềm, nhiều màu sắc, tôn lên nét duyên dáng của mỗi cô gái dưới vành nón lá.