Tag

Nét tinh tế, hào hoa trong dòng chảy văn hóa trà Hà thành

Người Hà Nội 16/07/2024 09:48
aa
TTTĐ - Thăng Long - mảnh đất ngàn năm văn hiến, nơi là kinh đô nhiều đời, cũng là chốn tập trung rất nhiều trí sĩ, tao nhân, mặc khách. Trong sinh hoạt văn hóa như bình thơ, ngắm trăng, trong các cuộc đàm đạo... trà không thể thiếu. Trà không chỉ là chất xúc tác cho cuộc vui thêm đậm đà mà chính cách thưởng trà, uống trà của người Thăng Long xưa cũng là nghệ thuật, là một nét văn hóa rất độc đáo. Để ngày hôm nay, dòng chảy văn hóa trà Hà thành vẫn được tiếp nối, đưa truyền thống hòa vào nhịp điệu phố phường hiện đại.
Những nét nổi bật trong xây dựng và phát triển con người văn hóa Dấu ấn công nghiệp văn hóa Hà Nội Nâng cao nhận thức người dân trong xây dựng đời sống văn hóa

Bài 1: Chất chứa hồn cốt kinh kỳ xưa

Nếu những người nông thôn dân dã khi đi làm đồng về chỉ cần ngửa cổ tu ấm nước chè xanh đầy sảng khoái thì bậc nho sinh, văn nhân lại có lối thưởng trà của trí sĩ, cầu kì và tinh tế. Vì thế, những chén trà chứa đầy hồn cốt kinh kỳ xưa cho ta thấy nét sinh hoạt văn hóa đặc trưng của người đô thị.

Người Thăng Long xưa cùng tục uống trà

Là khu vực thuộc vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, cây chè có cơ hội phát triển đã từ rất lâu đời trên nước ta và được canh tác trên những vùng lãnh thổ nhưỡng phù hợp. Theo nhiều tài liệu lịch sử, người ta đã tìm thấy dấu tích của cây chè, hoá thạch chè ở vùng đất tổ Hùng Vương (Phú Thọ ngày nay) đã tồn tại vào khoảng hơn 4.000 năm trước.

Đến ngày nay, tại khu rừng chè cổ vùng Suối Giàng (Yên Bái) có chục ngàn cây chè, trong đó có 3 - 4 cây cổ thụ cao từ 6 - 8m mà 3 người lớn ôm không xuể. Những cây chè này được cho là đã tồn tại hơn 3.000 - 4.000 năm về trước. Như vậy, không thể phủ nhận Việt Nam là một trong những chiếc nôi cổ nuôi dưỡng và phát triển của cây chè.

Từ non cao xuống đồng bằng, đâu đâu cũng hiện diện cây chè hay tục uống trà của người Việt. Khi bát chè tươi được du nhập vào kinh kì Thăng Long, nó không chỉ là thức uống giải khát mà nó còn là cách để người đất kinh thành thể hiện thú vui và văn hóa của mình.

Để nói riêng về văn hoá thưởng trà của người Thăng Long xưa lại rất đặc biệt nổi bật, là một nét đẹp truyền thống mang đậm sự tinh tế và sâu lắng, phản ánh tinh tế đời sống tinh thần văn hóa của người dân nơi đây. Ẩn sau hương vị thơm ngon của tách trà là một cách để thư giãn và thưởng thức cuộc sống, đồng thời là dịp để giao lưu, chia sẻ và gắn kết tình cảm.

Bức tranh được cho rằng sự xuất hiện của chén trà trong thời đại Hùng Vương từ khoảng 4000 năm về trước
Bức tranh được cho rằng nói đến sự xuất hiện của chén trà trong thời đại Hùng Vương từ khoảng 4.000 năm về trước

Theo các tài liệu để lại, nước dùng để pha trà được coi là yếu tố quan trọng nhất. Người Hà Nội xưa thường sử dụng nước mưa hoặc nước giếng trong để pha trà. Nước mưa mang lại vị ngọt thanh khiết, trong khi nước giếng lại được lấy từ tận những giếng nước sâu và sạch, lại có vị dịu nhẹ, không lẫn tạp chất. Nước phải được đin sôi đúng cách, không quá nóng cũng không quá nguôị, để khi pha trà mới giữ được hương vị và dưỡng chất của lá trà.

Ngoài ra, trà nhân Hà thành cũng rất cầu kỳ và kỹ lưỡng trong việc chọn trà. Các loại trà gồm trà xanh, trà mạn, trà sen, trà lài và trà cúc, đến nay những loại trà này vẫn được lựa chọn và phổ biến nhất. Trà xanh được chế biến từ những búp trà non, qua quá trình lựa chọn và sao khô kĩ lưỡng để đảm bảo được hương vị tươi mát và thanh khiết.

Một mẩu quảng cáo về trà của một quán chè trên phố Hà Nội xưa
Một mẩu quảng cáo về trà của một quán chè trên phố Hà Nội xưa

Trà mạn là loại trà để được lâu, đậm vị và hương thơm sâu lắng hơn cả. Trà sen và trà lài là hai loại trà đặc biệt được ướp với hoa sen hay hoa lài dành cho những trà nhân yêu thích hương vị tự nhiên nhẹ nhàng thanh nhiệt. Bởi vậy mới nói, Trà không chỉ là đồ uống mà còn là cầu nối tinh thần giữa con người với con người, giữa con người với thiên nhiên.

Sự cầu kì, tinh tế trở thành nghi thức

Như trong “Chén trà trong sương sớm”, nhà văn Nguyễn Tuân để nhân vật nói: “Cả ạ, thày cho nước pha trà không gì thơm lành bằng cái thứ nước đọng trong lá sen. Mỗi lá chỉ có ít thôi. Phải gạn vét ở nhiều lá mới đủ uống một ấm. Hồi thày còn ít tuổi, mỗi lúc được quan Đốc truyền cho đi thuyền thúng vớt những giọt thủy ngân ấy ở lá sen mặt đầm, thày cho là kỳ thú nhất trong đời một người học trò được thày học yêu như con”.

Cái cách thưởng trà của cổ nhân chỉ có ngòi bút của bậc kì tài, kĩ lưỡng và kì khu như Nguyễn Tuân mới có thể quan sát tỉ mỉ mà viết nên thành thái độ kính trà, thưởng trà như thế này: “Cụ khẽ nâng vuông vải tây điều phủ trên khay trà gỗ khắc có chân quỳ. Nhẹ nhàng, khoan thai, cụ Ấm nhắc cả đĩa dầm, chén tống, chén quân ra khỏi lòng khay. Đến lúc rờ tới cái ấm con chuyên trà thì cụ kểnh càng hơn.

Các pha trà cầu kì và tinh tế
Các pha trà cầu kì và tinh tế

Cụ ngắm nghía mãi chiếc ấm màu đỏ da chu, bóng không một chút gợn. Dáng ấm làm theo hình quả sung và khi luyện đất cho vào lò lửa, nguời thợ Tầu lấy dáng cho ấm kia đã là một người thợ có hoa tay. Cụ Ấm thử mãi da lòng tay mình vào mình cái ấm độc ẩm, hình như cố tìm tòi một chút gợn trên đất nung để được sung sướng hoàn toàn sau khi nhận thấy cái ấm độc ẩm kia là nhẵn nhụi quá.

Nước sôi già lắm rồi. Nhưng thói quen vẫn bắt cụ Ấm rót thử một chút nước xuống đất xem có thực là sôi không. Mở đầu cho công việc vụn vặt trong mỗi ngày tàn còn lại, ông già đã sợ nhất cái ấm trà tầu pha hỏng lúc sớm ma.

Từ trên bề cao cỗ sập, dòng nước sôi trút mạnh xuống nền đất trị, tiếng kêu lộp bộp.

Trên chiếc hỏa lò để không, cụ đã đặt thêm một ấm đồng cò bay khác. Những người uống trà dùng cách thức như cụ Ấm bao giờ cũng có ít ra là hai ấm đồng đun nước. Ấm nước sôi nhắc ra khỏi lò than là đã có chiếc ấm thứ hai đặt lên đấy rồi. Và hai ấm đồng đó cứ được mãi mãi thay phiên nhau đặt lên lò than đỏ rực, vì bữa nước trà cứ kéo dài không hết hồi. Như thế lúc nào người ta cũng có một thứ nước sôi đủ độ nóng để pha một ấm trà ngon”.

Đúng vậy, theo những người nghiện trà, chơi trà, để có được chén trà ngon, bình trà và tách uống phải được làm nóng bằng nước sôi. Trà cụ như thìa xúc trà và đồ lấy bã trà đều bằng tre khô hoặc gỗ thơm. Khi châm nước lần đầu, gọi là "cao sơn trường thủy", trà được tráng để loại bỏ bụi bẩn và giúp trà khô thấm đều. Lần thứ hai đổ nước, gọi là "hạ sơn nhập thủy", cần đổ cao để nước tràn miệng bình, rồi dội nước sôi lên nắp để giữ nhiệt.

Quán nước chè trước cổng đền Quán Thánh khoảng năm 1930
Quán nước chè trước cổng đền Quán Thánh khoảng năm 1930

Nước hai là nước ngon nhất, tạo ra trong 1 - 2 phút, mang hương vị đượm đà và thơm quyến rũ. Khi rót trà, cần rót đều vào các chén sao cho nồng độ trà như nhau bằng cách kê khít miệng chén và quay vòng vòi ấm. Truyền thống thường rót ra chén tống rồi chia đều ra các "chén quân", tuy nhiên cách này ngày nay ít dùng vì làm nguội trà và giảm hương vị.

Tuy nhiên, phần lớn chỉ ở tầng lớp quyền quý, tri thức mới có cách thưởng trà cầu kì hơn số đông. Người pha trà và mời trà cần phải thể hiện tác phong nho nhã và nhẹ nhàng, đúng với phẩm cách và học thức của mình. Người thưởng trà cũng phải cẩn trọng, hai tay nâng chén trà lên, đưa ngang tầm mũi để cảm nhận hương thơm, sau đó từ tốn nhấp từng ngụm nhỏ để thưởng thức trọn vẹn vị trà.

Đối với phần lớn người Việt, uống trà rất đơn giản mang tính cộng đồng và quần chúng rất cao. Trà hiện diện khắp nơi, từ trong nhà ra ngoài ngõ, từ những buổi tiệc tùng, lễ lạt trang trọng đến các quán xá bình dân, cơ quan và công sở. Trong các công việc làng xã, công việc quốc gia, hay những dịp hiếu hỷ, giỗ chạp, không thể thiếu cốc trà xanh hoặc chén trà mạn.

Khách đến nhà, bất kể gia chủ giàu nghèo, đều không quên pha trà mời khách để mở đầu câu chuyện. Nếu xưa kia, "miếng trầu là đầu câu chuyện," thì nay, khi trầu cau ít người ăn, chén trà đã trở thành phương tiện mở đầu câu chuyện thân tình.

Thi nhân Việt "múa" bút cùng chén trà

Tục uống trà của người Việt chẳng mấy ai rõ chúng xuất hiện chính xác từ khi nào, chỉ biết rằng đã có từ lâu về trước. Bát chè tươi hay những cung cách thưởng trà của người Kinh kỳ xưa cứ thế từ từ đi vào đời sống của Nhân dân rồi trở thành một nét văn hóa truyền thống sống động tự bao giờ. Nhiều dấu tích về tục uống trà của người Việt vẫn còn tồn tại, đặc biệt trà đã nhiều lần được các thi nhân nhắc đến trong văn chương, thi ca, ca dao dân gian.

Nét tinh tế, hào hoa trong dòng chảy văn hóa trà Hà thành

Trong ca dao xưa, tục uống trà như một thú chơi nhẹ nhàng thanh cao, giúp con người tìm thất sự bình yên bên trong tâm hồn:

“Nâng chén trà thơm, lòng bình yên

Thảnh thơi ngồi ngắm cảnh thiên nhiên.”

"Chén trà nhẹ nhàng, tâm thanh thoát,

Bao nhiêu phiền muộn, bỗng tan biến"

Hay là:

“Bạn bè gặp gỡ chén trà,

Chuyện trò tâm sự, đời thêm vui vầy.”

Đó là cách bình dân nhất khi nói về trà. Còn đối với các bậc đại thi hào, tao nhân mặc khách? Khi nói về trà hay uống trà không chỉ là một cách để tìm đến sự thanh tao, bình yên của cuộc sống mà còn là cả sự chiêm nghiệm triết lý sâu xa về cuộc đời, sự kết nối thâm tình giữa người và ta, giữa ta và thiên nhiên tươi đẹp.

Như Nguyễn Tuân cũng đã từng viết trong “Vang bóng một thời”: “Chén trà trong tay cụ ấm, không chỉ là một thức uống, mà là cả một nghệ thuật, một cách sống, một triết lý nhân sinh. Trong ánh trăng mờ ảo, chén trà trở thành biểu tượng của sự thanh tịnh, sự giao hòa giữa con người và thiên nhiên”.

Nét tinh tế, hào hoa trong dòng chảy văn hóa trà Hà thành

Đại thi hào Nguyễn Du đã để lại nhiều áng văn thơ bất hủ quý giá, cũng đã nhiều lần nhắc đến trà. Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du sử dụng hình ảnh trà như một biểu tượng cho sự thanh tịnh và thoát khỏi những phiền muộn của cuộc đời. Thưởng thức trà được coi là một thú vui tao nhã, giúp con người tìm thấy sự bình yên giữa cuộc sống đầy xô bồ và bon chen, kết nối tình cảm tình thân và lòng hiếu khách: “Thú tiêu dao chén trà ngon / Nét thanh tịnh giữa chốn bụi trần”.

Hay trong “Thanh Hiên thi tập" trà lại được xem như một phương tiện để hòa hợp với thiên nhiên, người bạn tâm giao với thi nhân: “Mỗi sớm sương thắm vườn trà / Uống cạn chén này ta với ta / Thong dong mặc khách giang hồ đến / Hương bay khắp ngả thoảng nhà nhà".

Nguyễn Trãi, vị công thần khai quốc của triều Lê, người được tôn vinh là "vạn thế quân sư", đã giúp Lê Thái Tổ đánh bại quân Minh xâm lược. Ông cũng là một tao nhân xuất chúng, hiện diện đầy rực rỡ bên chén trà thơm. Tư tưởng an hòa của Đại Việt được thể hiện rõ ràng và sâu sắc trong thơ văn của Nguyễn Trãi: “Hà thời kết ốc vân phong hạ / cấp giản phanh trà chẩm thạch miên” (Bao giờ dưới núi làm nhà / Nước suối trà pha, gối đá nằm). Trong thơ Ức Trai cũng đã nhiều lần đề cập đến trà và sự thanh tịnh của trà đem lại đối với thi nhân.

“Say mùi đạo, trà ba chén

Tả lòng phiền, thơ bốn câu"

Sau Nguyễn Trãi cả mấy thế kỷ, có Chu thần Cao Bá Quát là một trong những tâm giao đồng vọng với bậc tiền nhân. Người ta lấy rượu làm đề tài, còn với Chu thần lại mượn trà để làm thơ từ đó mà phong cách thưởng trà và lối sống chiêm nghiệm của ông cũng được thể hiện rất rõ ràng:

“​​Nhất sinh đê thủ bái mai hoa

Trà đáo lung mẫn tịnh thần dược

Tửu nhập thi tào hạo khí gia

Trà hành chi đạo vô hưu tức”.

Đối với Chu thần, uống trà như một "tịnh thần dược" giúp làm thanh tịnh tâm hồn. "Trà hành chi đạo vô hưu tức" nhấn mạnh rằng con đường uống trà và thực hành đạo đức không bao giờ ngừng nghỉ.

Nét tinh tế, hào hoa trong dòng chảy văn hóa trà Hà thành

Đoạn văn trên đã khắc họa rõ nét sự gắn bó sâu sắc giữa trà và thi nhân Việt Nam, từ những câu ca dao giản dị đến những bài thơ sâu sắc của các đại thi hào. Trà không chỉ là một thức uống mà còn là biểu tượng của triết lý nhân sinh, sự thanh cao và tình bạn.

Trà, qua bao thế hệ, đã trở thành một phần không thể thiếu trong đời sống văn hóa của người Việt. Nó là chất xúc tác tạo nên những cuộc gặp gỡ, những tâm tình sâu lắng và những khoảnh khắc suy tư tĩnh lặng. Trong những buổi sáng sớm hay đêm khuya, chén trà như đưa ta trở về với chính mình, tìm thấy sự an yên giữa cuộc sống xô bồ. Với mỗi ngụm trà, ta không chỉ cảm nhận hương vị mà còn thấm nhuần những giá trị tinh thần cao quý mà tổ tiên đã truyền lại.

Trà không chỉ là nguồn cảm hứng vô tận cho thi nhân, mà còn là cầu nối giữa con người với thiên nhiên, giữa hiện tại và quá khứ. Nó giữ lại những giá trị vĩnh cửu và tinh thần bất biến qua thời gian. Cứ thế, chén trà vẫn tiếp tục đồng hành cùng người Việt, như một biểu tượng của sự thanh tịnh, lòng kiên định và tình yêu quê hương.

(Còn nữa)

Đọc thêm

Tài năng trẻ góp công sức và tình yêu sáng tạo cho thành phố Nhịp điệu cuộc sống

Tài năng trẻ góp công sức và tình yêu sáng tạo cho thành phố

TTTĐ - Tại Lễ hội Thiết kế sáng tạo Hà Nội năm nay, các tài năng trẻ có mặt ở khắp các nhóm từ nghệ sĩ, kiến trúc sư, giám tuyển đến điều phối viên... đang ngày đêm miệt mài làm việc, cống hiến sức lực cho sự thành công của sự kiện. Thông qua đó, tinh thần sáng tạo trẻ được khơi dậy, lan tỏa, góp phần thúc đẩy phát triển công nghiệp văn hóa của Thủ đô.
Tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc, xây dựng khu dân cư phát triển Người Hà Nội

Tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc, xây dựng khu dân cư phát triển

TTTĐ - Chiều 16/11, Thành ủy viên, Phó Chủ tịch UBND TP Hà Nội Vũ Thu Hà dự Ngày hội Đại đoàn kết toàn dân tộc tại liên khu dân cư xã Đa Tốn, huyện Gia Lâm.
Thích thú trải nghiệm “những lần đầu tiên” hiếm có của Hà Nội Người Hà Nội

Thích thú trải nghiệm “những lần đầu tiên” hiếm có của Hà Nội

TTTĐ - Diễn ra trong 9 ngày (từ 9/11 - 17/11), Lễ hội Thiết kế Sáng tạo Hà Nội mở ra những cơ hội khám phá những di tích lịch sử, công trình di sản cũng như không gian sáng tạo chưa từng có.
Bài toán về xây dựng Công viên văn hóa ven sông Hồng Người Hà Nội

Bài toán về xây dựng Công viên văn hóa ven sông Hồng

TTTĐ - Luật Thủ đô (sửa đổi) được thông qua tại Kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XV, đã có quy định tập trung nguồn lực, ưu tiên tổ chức thực hiện quy hoạch phân khu sông Hồng, sông Đuống phù hợp với Quy hoạch Thủ đô và Quy hoạch chung Thủ đô. TP Hà Nội được xây dựng trung tâm công nghiệp văn hóa tại bãi sông, bãi nổi sông Hồng và khu vực khác có lợi thế về vị trí không gian văn hóa phù hợp với quy hoạch. Song, hiện tại, để “giấc mơ” Công viên văn hóa đa chức năng ven sông Hồng thành hiện thực, rất nhiều vấn đề đặt ra cần phải giải quyết.
Văn bản hướng dẫn chi tiết thi hành Luật Thủ đô có ý nghĩa quan trọng Người Hà Nội

Văn bản hướng dẫn chi tiết thi hành Luật Thủ đô có ý nghĩa quan trọng

TTTĐ - Việc ban hành văn bản quy định chi tiết thi hành Luật Thủ đô đóng vai trò quan trọng trong quá trình tổ chức thực thi luật, giúp các quy định pháp luật thực sự đi vào đời sống.
Tỏa sáng tinh thần hiếu học, đề cao tri thức và đạo làm người Người Hà Nội

Tỏa sáng tinh thần hiếu học, đề cao tri thức và đạo làm người

TTTĐ - “Một chữ cũng là thầy, nửa chữ cũng là thầy”, truyền thống tôn sư trọng đạo ngàn đời của cha ông ta trong thời hiện đại càng được người Hà Nội phát huy, tỏa sáng, thể hiện tinh thần hiếu học, đề cao tri thức và đạo làm người.
Thầy nêu gương, trò chuẩn mực Người Hà Nội

Thầy nêu gương, trò chuẩn mực

TTTĐ - Trong những mái trường tại Hà Nội, văn hóa ứng xử có nhiều cách làm hay, mô hình sáng tạo để nhân lên những việc làm tốt, hành động đẹp, giáo dục nếp sống cho thế hệ trẻ, góp phần xây dựng hình ảnh con người Thủ đô đẹp và văn minh hơn.
Đường sắt tốc độ cao: Cần tăng cường nguồn lực tư nhân Giao thông

Đường sắt tốc độ cao: Cần tăng cường nguồn lực tư nhân

TTTĐ - Một số đại biểu Quốc hội cho rằng, bên cạnh nguồn vốn ngân sách, nguồn vốn Nhà nước huy động thì cần tăng cường nguồn lực đầu tư tư nhân để làm dự án đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam.
Phát huy tinh thần đoàn kết, xây dựng Thanh Trì văn minh, hiện đại Người Hà Nội

Phát huy tinh thần đoàn kết, xây dựng Thanh Trì văn minh, hiện đại

TTTĐ - Tối 12/11, Phó Chủ tịch UBND TP Hà Nội Hà Minh Hải đã đến dự Ngày hội Đại đoàn kết toàn dân tộc cùng cộng đồng dân cư Thôn 1, xã Vạn Phúc, huyện Thanh Trì. Cùng dự có đại diện Ủy ban MTTQ Việt Nam TP Hà Nội và lãnh đạo huyện Thanh Trì.
Chuyển biến rõ nét từ nghị quyết “5 có, 3 không” Người Hà Nội

Chuyển biến rõ nét từ nghị quyết “5 có, 3 không”

TTTĐ - Sau 10 năm thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về “xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”, huyện Đông Anh đã có nhiều chuyển biến rõ nét. Huyện ban hành những nghị quyết chuyên đề như nghị quyết "5 có, 3 không", nhờ đó, đời sống văn hóa cơ sở được nâng cao, các thiết chế văn hóa được đầu tư và phát huy hiệu quả.
Xem thêm